Viết bài văn kể lại câu chuyện về một nhân vật lịch sử mà em đã đọc (3 mẫu)

Tổng hợp các đoạn văn kể lại câu chuyện về một nhân vật lịch sử mà em đã đọc, đã nghe hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Viết bài văn kể lại câu chuyện về một nhân vật lịch sử mà em đã đọc (hay nhất)

Quảng cáo

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 1

Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng. Trong số đó, Trần Quốc Toản là vị anh hùng đáng ngưỡng mộ và cảm phục.

Trần Quốc Toản (không rõ năm sinh, năm mất), hiệu là Hoài Văn hầu, là một tông thất nhà Trần.

Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông cho tổ chức Hội nghị gồm các Vương hầu và tướng lĩnh tại bến Bình Than để bàn kế sách chống giặc Mông - Nguyên. Vì còn ít tuổi nên Trần Quốc Toản không được tham dự. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn uất, tay cầm quả cam mà bóp nát lúc nào không biết.

Không nản lòng, Trần Quốc Toản lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên cờ sáu chữ “phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Tiếng vang của Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng lan truyền khắp mọi nơi.

Quảng cáo

Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Lúc này, lá cờ thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu xuất hiện trên nhiều mặt trận. Ông đã trực tiếp chỉ huy quân đội sát cánh cùng quân chủ lực của triều đình góp phần làm nên những chiến thắng vang dội ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phải bỏ Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Sau này, khi ông hy sinh, vua Trần hết sức thương tiếc, cho cử hành tang lễ và đích thân làm văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn Vương.

Không nản lòng, Trần Quốc Toản lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên cờ sáu chữ “phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Tiếng vang của Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng lan truyền khắp mọi nơi.

Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Lúc này, lá cờ thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu xuất hiện trên nhiều mặt trận. Ông đã trực tiếp chỉ huy quân đội sát cánh cùng quân chủ lực của triều đình góp phần làm nên những chiến thắng vang dội ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phải bỏ Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Sau này, khi ông hy sinh, vua Trần hết sức thương tiếc, cho cử hành tang lễ và đích thân làm văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn Vương.

Quảng cáo

Trần Quốc Toản không chỉ có tài năng mà còn mang những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí và lòng yêu nước để các thế hệ trẻ Việt Nam noi theo.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 2

Để có một đất nước không có chiến tranh, bộ đội và các chiến sĩ, các vị anh hùng của dân tộc đã phải đổ máu để dành lại tự do. Trong những người chiến sĩ dũng cảm đó, có trẻ nhỏ, có thiếu niên, có người trưởng thành. Và một trong những người anh hùng nhỏ tuổi mà em rất ngưỡng mộ, đó là anh Kim Đồng.

Một lần, sau khi làm nhiệm vụ dẫn cán bộ vào căn cứ, Kim Đồng đang trên đường trở về nhà thì nghe có tiếng động lạ ở trong rừng. Kim Đồng liền rủ Cao Sơn tìm cách báo động cho các anh cán bộ đang ở trong xóm biết. Sau khi quan sát, Kim Đồng đã nhìn thấy bọn lính đang lợi dụng sương mù phục kích trên đường vào xóm và im lặng đợi bắt người. Kim Đồng bảo Cao Sơn lùi về phía sau, chạy về báo cáo. Đợi cho bạn đi rồi, Kim Đồng ngắm kĩ địa hình, để chạy vọt qua suối, lên phía rừng. Như vậy, bọn lính sẽ phải nổ súng hoặc kêu lên. Chúng nó sẽ bị lộ. Quả nhiên, thấy có bóng người chạy, bọn giặc lên đạn và hô: “Đứng lại!”.

Quảng cáo

Kim Đồng không dừng chân. Giặc bắn theo.

Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thoát lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin. Hôm ấy là sáng sớm ngày 15 tháng 02 năm 1943.

Em rất ngưỡng mộ anh Kim Đồng. Anh đã nêu lên một tấm gương vì cách mạng quên mình, hy sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ cách mạng. Sự hy sinh đó là tấm gương sáng chói mở đầu cho nhiều gương cao quí khác trong đội ngũ Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

Anh Kim Đồng xứng đáng là một người anh hùng. Một người chết cho đân tộc, đã dâng cả đời mình để cứu lấy sự hoà bình, ấm no. Anh sẽ luôn sống mãi trong tâm trí của mỗi người theo năm tháng không bao giờ phai.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 3

Trong những năm tháng chiến tranh, rất nhiều người con của mảnh đất Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc. Một trong số đó là Võ Thị Sáu - nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Nguyên quán được ghi trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã cùng với anh trai tham gia cách mạng. Chị tham gia vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong thời gian này, chị tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương. Không chỉ vậy, chị cũng nhiều lần phát hiện ra gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.

Một lần nọ, chị nhận nhiệm vụ mang lựu đạn phục kích giết tên cai Tòng - một tên Việt gian bán nước ngay tại xã nhà. Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước. Sau này, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị đã bị giặc bắt. Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Thực dân Pháp đã cho mở phiên tòa, thời điểm này, chị vẫn chưa tròn mười tám tuổi. Luật sư biện hộ đã lấy đó làm căn cứ để giúp chị thoát khỏi án tử hình, nhưng tòa án vẫn tuyên án tử hình chị. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo. Ở đây, thực dân Pháp đã lén lút đem chị đi tử hình.

Vào năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Chị Võ Thị Sáu chính là một biểu tượng về lòng dũng cảm, kiên cường.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 4

Trong lịch sử nước ta có rất nhiều anh hùng với tuổi đời còn rất nhỏ, họ là những người thiếu niên với tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và đã giác ngộ Cách mạng từ rất sớm. Họ đã dạy chúng ta về lòng dũng cảm, lòng yêu nước sâu nặng, tinh thần quả cảm và tinh thần học hỏi không ngừng. Đối với tôi, những người thiếu niên đó đã giúp tôi có thêm những niềm cảm hứng tốt đẹp trong từng suy nghĩ, từng hành động và ước mơ của mình. Và có lẽ, người anh hùng thiếu niên Kim Đồng là người mà tôi yêu kính,khâm phục và là nguồn cảm hứng lớn nhất trong tôi.

Kim Đồng, anh tên thật là Nông Văn Dền, sinh năm 1928, là một người dân tộc Nùng tại tỉnh Cao Bằng. Tuy là người dân tộc thiểu số, nhưng được sinh ra trong cái nôi Cách mạng nên anh sớm đã giác ngộ lý tưởng Cách mạng và trở thành đội trưởng đội Nhi đồng cứu quốc. Tuy còn nhỏ nhưng Kim Đồng đã nhận thức rõ được nhiệm vụ của Cách mạng và khuyến khích, vận động các bạn khác đi theo hoạt động và làm liên lạc cho Việt Minh.

Năm 1943, khi đó, Kim Đồng mới mười lăm tuổi, trong một lần làm nhiệm vụ canh gác, anh đã anh dũng hi sinh khi bảo vệ các đồng chí lãnh đạo rút lui về chiến khu an toàn. Anh hi sinh khi tuổi đời còn rất nhỏ, và sự hi sinh của anh đã trở thành tấm gương sáng chói để lớp thiếu niên thế hệ sau noi theo.

Ở Kim Đồng, chúng ta học được sự thông minh, nhanh nhẹn, lòng dũng cảm và lòng yêu nước sâu sắc. Vâng lời Bác Hồ đã dặn, thiếu niên chúng ta phải luôn biết "yêu Tổ quốc, yêu đồng bào". Từ tấm gương anh hùng Kim Đồng, chúng ta được truyền thêm nguồn cảm hứng để thực hiện được điều đó. Mỗi người thiếu niên chúng ta cần phải rèn luyện đạo đức, tác phong của mình, học tập thật chăm chỉ, tham gia các lớp ngoại khóa về chủ quyền dân tộc cũng như tuyên truyền để bảo vệ đất nước của mình. Kim Đồng cũng đã truyền cho tôi động lực và ước mơ được trở thành một người lính cầm súng bảo vệ quê hương mình. Chính anh là người đã khơi lên tình yêu nước trong tôi và lòng quyết tâm thực hiện ước mơ của mình để góp phần giữ gìn Tổ quốc như anh đã từng làm.

Chắc hẳn, không chỉ tôi mà toàn bộ người dân Việt Nam đều khâm phục lòng yêu nước vô cùng của Kim Đồng. Anh sẽ mãi mãi là tượng đài bất hủ của thiếu niên chúng ta về lòng yêu nước và sự can đảm, lòng dũng cảm của mình.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 5

Có một nữ anh hùng mà tôi luôn ngưỡng mộ, đó chính là Hai Bà Trưng. Tôi tìm hiểu thêm về cuộc đời của bà qua những thông tin trên báo chí, internet. Qua đó, tôi càng xúc động và khân phục trước hành động dũng cảm mà họ đã làm để trở thành những anh hùng dân tộc. Để tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện này nhé!

Hai Bà Trưng sống trong thời kỳ đất nước bị xâm lược và chiến tranh không ngừng. Họ thấy bất bình trước tình trạng bị áp bức của nhân dân, vì thế đã rèn luyện võ nghệ và chờ đợi ngày giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả đã bắt đầu khi quan giặc Thi Sách giết chồng của bà Trưng Trắc. Hai bà quyết định nổi dậy khởi nghĩa chống lại kẻ thù ngoại xâm.

Hai Bà Trưng trở nên mạnh mẽ và thông thạo chiến lược. Đội quân của họ ngày càng đông hơn, chiến thắng quân địch và khiến kẻ thù kinh hãi. Nhưng cuối cùng, quân thù bắt đầu đến với binh viện trợ, dồn áp lực lên quân ta. Hai Bà Trưng đã chiến thắng, nhưng không kéo dài được lâu.

Tình thế khó khăn khiến hai bà bị dồn vào vách núi và quyết định tự vẫn để không rơi vào tay kẻ thù. Tinh thần kiên cường của hai bà vẫn khiến tôi cảm phục đến ngày hôm nay. Hai Bà Trưng cũng là minh chứng rõ nét và hùng hồn về những người phụ nữ Việt Nam dù thời nào cũng luôn quật cường, anh dũng, chẳng thua kém bất cứ đấng nam nhi nào.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 6

Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Rất nhiều vị anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, nên từ nhỏ đã được giáo dục về lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương, đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao cho nắm giữ trọng trách quan trọng. Chuyện kể rằng cuối năm 1954, Ban Thường vụ T.Ư quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ có hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề gì quan trọng, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.

Nhờ có sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ đã củng cố quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến phải “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vẻ vang.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời để thế hệ sau noi theo.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 7

Đất nước Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng nổi tiếng. Nhưng em cảm thấy ngưỡng mộ và khâm phục nhất là Trần Quốc Toản.

Vốn là dòng dõi con nhà võ, từ thuở nhỏ Trần Quốc Toản đã làu thông sử sách và rất giỏi võ công mưu lược. Năm Trần Quốc Toản 15 tuổi, vua Trần triệu tập “Hội nghị Bình Than” - (Nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), gồm toàn thể các quan đại thần và các tướng lĩnh để bàn kế đánh giặc Nguyên Mông. Vì tuổi còn nhỏ nên Trần Quốc Toản đến nhưng vua không cho vào dự họp bàn lại còn an ủi ban thưởng cho một quả cam... Trần Quốc Toản lấy làm xấu hổ, nghĩ vua vẫn coi mình như là con nít. Rồi với lòng buồn tủi và căm thù giặc uất nghẹn trào lên, cậu bé Quốc Toản đã bóp nát quả cam trong tay mình lúc nào mà không hay biết!

Trở về, Trần Quốc Toản “bí mật” huy động gia nô tùy tùng, bạn bè thân hữu (đa phần là tuổi thiếu niên) khoảng hơn nghìn người, tổ chức đúc rèn binh khí, đóng chiến thuyền và dựng một lá cờ to thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo Hoàng ân” để chờ ngày xuất binh.

Đầu năm 1285, giặc Nguyên Mông ồ ạt kéo sang xâm lược nước Nam. Trần Quốc Toản chỉ huy “đội quân thiếu niên” của mình, sát cánh với đội quân của thượng tướng Trần Quang Khải “đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy đều phải tránh lại, không kẻ nào dám đối địch”... Đến tháng 6 năm đó, giặc Nguyên Mông bị quân dân ta căng ra đánh ở khắp nơi khiến cho chúng hao tổn lực lượng và thất bại liên tiếp. Thừa thắng, Hoài văn hầu Trần Quốc Toản cùng với tướng quân Nguyễn Khoái đem binh đi chặn đón đánh giặc ở Tây Kết. Trận này giặc thua to, tan rã ra từng mảng, tìm đường tháo chạy về nước. Khi giặc Nguyên Mông rút chạy đến sông Như Nguyệt (đoạn ở Thị Cầu bây giờ) vua Trần Thánh Tông đã sai Hoài văn hầu Trần Quốc Toản đến chặn đánh. Trận đánh ấy diễn ra rất căng thẳng gay go. Bọn giặc tuy bị thua chạy nhưng chúng chống trả rất quyết liệt! Và... Hoài văn hầu Trần Quốc Toản đã anh dũng hy sinh trong trận đánh này lúc vừa tròn 18 tuổi. Đó là vào trung tuần tháng 6 năm Ất Dậu (1285). Được tin, vua Trần Thánh Tông vô cùng thương xót, tự mình làm văn tế lễ và truy phong tước vương để ghi nhận công lao đánh giặc.

Hoài đức vương Trần Bà Liệt (bố đẻ của Trần Quốc Toản) khi qua đời, thi hài được mang về an táng tại quê mẹ ở làng Sặt nay là khu phố Trang Liệt (tức trang trại của Trần Bà Liệt). Nơi đây còn khu ruộng diện tích gồm 41 mẫu Bắc bộ trước kia có ghi ở trong “địa bạ” mà người dân địa phương vẫn thường gọi là “Trần triều sơn lăng”. Khu đồng này trong hương ước làng đã quy định: Chỉ dành riêng để trồng cây Lim lấy gỗ phục vụ cho việc tu sửa và kiến thiết xây dựng đình, đền, chùa. Nên từ xa xưa mới có tên gọi là “Rừng Sặt”, “Làng Sặt”... Đình làng Trang Liệt phụng thờ thượng tướng quân Trần Quang Khải với bài thơ nổi tiếng của ông được làm sơn mài rất trang trọng tôn nghiêm:

“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san”

Dịch nghĩa:

Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước mãi ngàn thu!

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 8

Trong những câu chuyện về nhân vật lịch sử đã được đọc, em rất yêu thích câu chuyện Ông Yết Kiêu - một câu chuyện kể dân gian về người anh hùng tài giỏi.

Yết Kiêu là một người anh hùng sống ở thời Trần của nước ta. Ông sinh ra và lớn lên với sức khỏe phi thường và khả năng bơi lội, lặn dưới nước rất giỏi. Khi nghe tin đất nước phải đối mặt với giặc Nguyên hùng mạnh sang xâm lược, Yết Kiêu vô cùng lo lắng. Lúc ông biết giặc cử 100 chiến thuyền tấn công nước ta từ cửa biển Vạn Ninh, thì liền quyết định xin đi đánh giặc. Bởi ông biết được tài năng của mình sẽ giúp ích rất nhiều cho trận chiến này, nên đã vào cung xin vua được ra trận. Thấy Yết Kiêu trổ tài, nhà vua rất vui mừng và tin tưởng giao cho ông trọng trách ngăn chặn các chiến thuyền của giặc. Tuy nhiên, khi nhà vua hỏi ông cần bao nhiêu binh lính và công cụ để hỗ trợ. Thì ông lại không cần ai đi cùng cả, chỉ xin vua một chiếc dùi đục và một chiếc búa mà thôi.

Chỉ với hai công cụ đó, Yết Kiêu một mình bí mật đi ra biển, truy tìm tàu của địch và đục lỗ khiến các chiến thuyền bị chìm một cách bí ẩn. Điều đó khiến quân giặc vô cùng hoang mang và sợ hãi. Sau này, chúng sử dụng một ống nhòm có mắt bằng thủy tinh, nên phát hiện ra Yết Kiêu đang đục thuyền. Nhân lúc ông tập trung đục đáy thuyền, chúng dùng lưới sắt bắt ông lên. Thấy giặc hằm hè đe dọa, Yết Kiêu giả vờ sợ hãi. Rồi khai ra những thông tin giả để lung lạc bọn chúng. Ông nói rằng nước Nam có rất nhiều người tài như, đều đang chia nhau ra để làm nhiệm vụ. Và hứa rằng nếu địch cởi trói cho ông, ông sẽ dẫn chúng đi bắt những người còn lại. Nghe vậy, lũ giặc tin lắm, liền cởi trói cho ông. Nhờ vậy, chỉ một giây lơ là của lũ giặc, Yết Kiêu đã nhảy xuống biển, lặn mất tăm.

Sau đó, các chiến thuyền của giặc lại bị đắm ngày càng nhiều hơn, nhưng chúng không thể bắt được Yết Kiêu thêm lần nữa. Nhớ lại lời khai của Yết Kiêu, chúng nghĩ bụng nước Nam nhiều người tài như thế thì khó mà thắng được, nên đành rút quân, bỏ chạy về nước.

Người anh hùng Yết Kiêu vừa tài giỏi lại dũng cảm, đa mưu túc trí khiến em vô cùng thán phục và ngưỡng mộ. Em rất biết ơn những người anh hùng lịch sử như ông ấy, vì nhờ có họ mà đất nước ta mới trường tồn, nhân dân mới có cuộc sống bình yên.

Viết bài văn kể lại câu chuyện về một lịch sử mà em đã đọc - mẫu 9

Trong suốt hơn nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước ta đã xuất hiện lớp lớp những anh hùng. Họ trở thành chứng nhân lịch sử, thành biểu tượng hào hùng cho dân tộc. Đã có rất nhiều câu chuyện viết về những người anh hùng ấy. Nhưng em ấn tượng và đọc lại nhiều lần nhất vẫn là câu chuyện Hai Bà Trưng.

Câu chuyện kể về hai nữ anh hùng Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đương thời, nước ta đang sống dưới sự cai trị và bóc lột tàn bạo của giặc phương Bắc. Chúng bắt dân ta cống nạp đủ thứ, rồi đày người dân đi săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai. Vì vậy mà nhân dân sống khổ đau, uất hận. Lúc đó, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị sống ở vùng Mê Linh được mẹ nuôi dạy khôn lớn, không chỉ giỏi võ nghệ mà còn tinh thông binh lược. Hai bà nồng nàn lòng yêu nước và khát khao đánh đuổi giặc xâm lược. Danh tiếng của hai bà vang dội trong lòng dân, nên lũ giặc phương Bắc đang đô hộ rất e ngại. Chúng đã bắt giết chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách hòng đe dọa bà. Nhưng ngờ đâu, hành động đó của chúng lại khiến cơn căm giận của hai bà càng thêm bùng cháy. Hai bà quyết tâm đứng dậy khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù. Nghĩa quân ầm ầm kéo về thành Luy Lâu hỏi tội Tô Định. Khí thế đoàn quân hào hùng, hai bà mặc áo giáp rực rỡ, cưỡi trên con voi to lớn làm kẻ thù run sợ, lần lượt bại trận thảm hại. Tô Định thất thế phải bỏ chạy về nước trong nhục nhã. Nhờ Hai Bà Trưng, đất nước ta lần đầu tiên đánh thắng giặc xâm lược phương Bắc, dành được độc lập.

Đọc câu chuyện Hai Bà Trưng, em vô cùng xúc động và tự hào về hai bà. Dù là phận nữ nhi nhưng những điều mà hai bà làm được thì cả thế giới phải ngả nón thán phục. Thật tự hào và hạnh phúc khi dân tộc ta có hai nữ anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 4 hay khác:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, BÀI TẬP CUỐI TUẦN, SÁCH ÔN TẬP DÀNH CHO KHỐI TIỂU HỌC

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và bài tập cuối tuần, gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn, giải Tiếng Việt lớp 4 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 1 và Tập 2 Kết nối tri thức (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên