5+ Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng (điểm cao)

Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng (điểm cao)

Quảng cáo

Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng - mẫu 1

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Quảng cáo

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?"

Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.

Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.

Quảng cáo

Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê h­ương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con ngư­ời, mùi hư­ơng, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

"Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?"

Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.

Quảng cáo

Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc - những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.

"Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng - nhà thơ Tố Hữu.

Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.

Dàn ý Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng

1. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm Nhớ đồng

2. Thân bài

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh

Không gian đồng vắng

Thời gian trưa vắng

Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn

- Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài

- Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.

Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.

- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.

- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng cong xuống luống cày

Những bàn tay vãi giống

Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.

- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.

“Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.

Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình

Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại

⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

3. Kết bài

Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.

Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ

Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng - mẫu 2

Bài thơ "Nhớ đồng" của Tố Hữu là một tác phẩm xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh lịch sử đau thương của những năm đầu thế kỷ 20. Với tư duy và tài năng sáng tác, Tố Hữu đã ghi lại những trải nghiệm và tâm tư của mình trong những ngày giam cầm tại nhà tù Thừa Thiên Huế, tạo nên một kiệt tác thơ ca thể hiện tình cảm quê hương và lòng yêu nước. Bài thơ "Nhớ đồng" không chỉ là một hiện thân của nghệ thuật thơ ca, mà còn là biên niên sử của cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Tố Hữu. Những dòng thơ chất chứa sự nhìn nhận sâu sắc về quê hương, về người đồng bào, và đặc biệt là về những kí ức đau thương của tác giả trong thời kỳ giam giữ. Đồng thời, bài thơ cũng phản ánh tâm huyết, lòng quả cảm và tinh thần kiên trung của những con người yêu nước trong mối quan hệ với đồng đội và quê hương.

Ngôn từ của Tố Hữu tại "Nhớ đồng" không chỉ là đẹp và sâu sắc mà còn là hiện thân của tinh thần cách mạng. Dòng thơ trong tác phẩm này là một lời thể hiện lòng nhân ái và tình đoàn kết giữa các tù nhân cách mạng trong điều kiện khó khăn. Nhờ vào tài năng của mình, Tố Hữu đã tạo ra một kiệt tác thơ ca mang tính biểu tượng, kết nối tình cảm nhân dân và tinh thần yêu nước, giữ lấy truyền thống văn hóa và lịch sử dân tộc.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..”

Đó chính là trạng thái cô đơn, lẻ loi và đơn độc mà Tố Hữu phải đối mặt khi bị giam giữ, cách ly với thế giới bên ngoài. Mỗi âm thanh nhỏ, mỗi tiếng động nho nhỏ từ bên ngoài đều đủ để đánh thức trong nhà thơ một cảm giác nhớ mãi, không bao giờ phai nhạt. Không cần là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải như trong tác phẩm "Khi con tu hú," mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc, gắn bó với quê hương đồng quê:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Bài thơ bắt nguồn cảm hứng từ giai điệu của tiếng hò quen thuộc, biến nó thành một bản nhạc lặp đi lặp lại, kể về nỗi thương nhớ, cô đơn, và hiu quạnh của người tù.

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Tiếng hò như một dải nhạc hòa quyện, mở đầu cho một chương điệu của cuộc sống đồng quê, là một nốt nhạc trầm lắng, gần gũi, khắc sâu trong tâm hồn nhà thơ. Từng nốt nhạc kể lể về quê hương, mỗi giai điệu đều hòa quyện với biểu tượng của một thời thơ ấu, của những ngày xa lạ và gió mặn biển cả.

Nỗi nhớ đến quê nhà không chỉ là việc kính trọng đồng quê mà còn là việc tôn vinh hình ảnh con người lao động. Trong mắt nhà thơ, họ là những người dân chân chất, giản dị nhưng chất phác và chăm chỉ. Dưới bàn tay tài năng của Tố Hữu, hình ảnh họ hiện lên như những "người hiền như đất," chấp nhận mọi khó khăn của cuộc sống nông thôn.

"Dãi gió dầm mưa" không chỉ là cảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho sự kiên trì, lòng bền bỉ và chịu đựng của những người lao động. Họ là những "người rất thật thà," giữ vững bản lĩnh, không gian dối trong cuộc sống khó khăn, làm nên những bức tranh sống động về đồng quê thanh bình mà nhà thơ muốn kể.

Qua từng chi tiết nhỏ, Tố Hữu đã làm nổi bật hình ảnh của những người làm ruộng, làm nước trở nên thực tế, sống động. Âm thanh của tiếng hò không chỉ là nhạc nền, mà còn là bản hòa âm của những trái tim chân chất, giữ lại những giá trị văn hóa và lòng yêu nước sâu sắc. Tất cả những điều này tạo nên một tác phẩm thơ hùng vĩ, kết nối tâm hồn nhà thơ với quê hương và con người, làm cho nỗi nhớ trở nên hết sức chân thành và rung động.

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Dưới ánh nắng mặt trời hùng vĩ, những chiếc cày găm sâu vào đất mẹ, những người nông dân gian nan, chăm chỉ, dường như bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Họ là những người lính chiến đấu trong cuộc chiến với thời gian, cảm giác đau đớn từ những năm tháng cày gặt đã làm cho lưng họ càng còng trở nên. Dưới vóc cày nặng nề, họ gặp gỡ với những cảm xúc của đất đai, nhưng không một lần làm họ phải chùn bước. Mặc dù có phải chìm đắm trong bùn lầy đen đậm, hoặc bụi bẩn nặng nề, ánh sáng trong họ vẫn rực rỡ và tươi sáng như những đám mây trắng bồng bềnh trên bầu trời.

Những người nông dân đó không chỉ là những người làm ruộng, mà họ là những nghệ sĩ tạo ra bức tranh nông thôn với những đường cày nhấp nhô, như những bản nhạc của đất đai. Họ biến những cảm xúc, những khó khăn thành những bức tranh đẹp như tranh vẽ, cho dù lưng đeo gánh nặng của họ trở nên càn còng. Chính những nông dân đơn giản, mộc mạc, chân chất như họ là những người tạo nên vẻ đẹp nhân hậu, là những bức tranh sống động về phẩm chất trong sáng. Điều đặc biệt là, qua đôi mắt chân thành ấy, họ lại là những nguồn sáng, gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời, nơi mà lòng lao động và tình yêu thương là nguồn động viên không ngừng. Nhà thơ tiếp tục gieo mình vào thế giới nỗi nhớ thương bao la qua những chi tiết hết sức sinh động và nguyên bản. Đó có thể là giọng hò vang lên từ những cánh đồng, là sương mỏng manh như tâm hồn, là bông lúa đẫy đà màu vàng, hay là âm thanh xa xa của chiếc xe lùa nước. Mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh đều là một mảnh ghép của quê hương xa xôi, giữa sự cách trở và quyến luyến.

Nhà thơ không chỉ nhớ về những cảm giác gần gũi của quê nhà mình mà còn mê đắm trong đau thương khi nhớ đến hình bóng tù đày. Những chi tiết vụt lên trong tâm trí, từ giọng hò vang vọng cho đến những giọt sương mảnh dịu dàng, từ bông lúa nghiêng ngả dưới ánh nắng mặt trời đến tiếng xe lùa nước lẻ loi. Mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh, đều trở thành những dấu vết đau lòng, làm cho tâm hồn tác giả chạnh lòng, như một hồi hộp đầy xúc động len lỏi vào tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng.

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Trong khoảnh khắc yên bình và quen thuộc, một câu hỏi âm ỉ nổi lên trong tâm hồn nhà thơ, nhưng lời đáp lại chẳng từ đâu mà xuất hiện. Đó như là một nhát dao sâu xé vào lòng tâm, làm cho người tù trở nên tuyệt vọng và cô đơn giữa những bức tường tăm tối. Trong cái tăm tối đó, mọi thứ dường như trở nên xa xôi và cách biệt. Nỗi nhớ về quê hương, nhớ về mẹ già yêu dấu, làm tăng thêm niềm đau xé lòng của nhà thơ. Bức tranh về người mẹ xuất hiện trong ký ức, hình ảnh của người phụ nữ yêu thương nhất, trở thành nguồn động viên và đồng cảm lớn lao trong trái tim của nhà thơ, nhất là khi ông đang trải qua những tháng ngày khó khăn tại nhà lao Thừa Thiên Huế.

Những cảm xúc tiếp nối nhau, từ tủi hổ, buồn thương đến lòng kiên trì, dũng cảm, làm nổi bật hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng. Trong bức tranh của tác giả, anh ta trở nên mạnh mẽ và quả cảm, vượt qua những phút giây yếu đuối để giữ lấy khát khao tự do, khao khát giả thoát. Có lẽ, trong những giây phút ấy, niềm tin vào cuộc sống và sự kiên trì trở thành nguồn lực mạnh mẽ, giúp nhà thơ vượt qua mọi gian khó và đối mặt với những thách thức của số phận.

"Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

Bức tranh hùng vĩ của chú chim sơn ca đang vẽ lên bầu trời xanh rộng lớn trở thành biểu tượng cho khát khao tự do và sự mở cửa rộng lớn của tâm hồn người chiến sĩ. Hình ảnh chú chim sơn ca đang sải cánh bay trên bầu trời là biểu tượng của sự tự do, vui tươi và hạnh phúc, đặc biệt khi bức tranh ấy được vẽ trong bức tranh u tối của những ngày giam cầm. Tiếng hò của những người đồng đội, đưa hố não nùng, làm dậy lên trong tâm hồn của nhà thơ những kí ức đẹp về quê hương và đồng đội. Những cảnh sắc, hình dáng quen thuộc được hồi tưởng và khơi gợi nỗi nhớ thương sâu sắc. Nhà thơ như được kết nối với một thế giới bên ngoài tù giam, nơi mà tiếng hò làm sống lại những hình ảnh quen thuộc và hạnh phúc đã trôi qua. Nhớ về quá khứ, những ngày người chiến sĩ cống hiến bản thân cho cách mạng, hình ảnh của những người anh em đồng đội, cùng niềm tự hào và sự hạnh phúc được dâng hiến cho mục tiêu chung, lại một lần nữa làm cho tâm hồn anh ta sôi sục. Cuộc đời bị hạn chế trong nhà tù, nhưng khao khát được tự do, trở lại với cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, lại là nguồn động viên mạnh mẽ, là động lực để vượt qua những khó khăn và thách thức.

Nêu cảm nghĩ bài thơ Nhớ đồng - mẫu 3

Tố Hữu, tượng đài của văn thơ cách mạng, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Khi gia nhập Đảng vào năm 1938, Tố Hữu không ngừng hăng say và nhiệt huyết với hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, năm 1939, ông bất ngờ bị bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên Huế, nơi mà tâm hồn của ông bùng cháy và sáng tác nên tập thơ "Từ ấy", trong đó có bài thơ "Nhớ đồng" đặc biệt nổi bật trong phần "Xiềng xích".

Những ngày trong tù, ông trải qua những cảm xúc u buồn và nhớ thương, nhưng tiếng hò vang vọng xa xôi đã trở thành bảo bối góp phần đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người chiến sĩ bị giam cầm. Trong không gian đồng cỏ trải rộng, nơi mặt trời trưa rực rỡ, một con người lẻ loi, cô độc đang phải đối diện với sự tách biệt và cô đơn từ thế giới bên ngoài.

Nỗi nhớ quê hương và những người đồng đội cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào cho Tố Hữu, giúp ông vượt qua những khó khăn và thách thức của cuộc sống tù đầy gian khổ. Bài thơ "Nhớ đồng" thực sự là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, ghi lại những chấn thương và tình cảm sâu sắc trong thời kỳ giam cầm, đồng thời tôn vinh tinh thần kiên trì và chí hướng cách mạng của người tác giả.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" - những từ này truyền tải một nghệ thuật chân thật và tâm huyết, nói về sự nhớ mãi đậm sâu trong cõi tâm hồn của tác giả. Câu thơ mở đầu với điệp từ "đâu" như là một tiếng gọi của trái tim, làm nổi bật một niềm khao khát, một lòng tìm kiếm và quay về với quê hương, với bản nguyên của cuộc sống.

Từ "đâu" không chỉ là một từ ngữ, mà còn là khát vọng, là một hành trình tìm kiếm nguồn cội, là hình ảnh của sự hiểu biết và sự trải nghiệm. Suốt năm câu thơ, điệp từ này luôn hồi sinh và bao bọc cả tâm trạng của tác giả. Nó không chỉ là lời thốt ra mà còn là giọng hát của trái tim, là tiếng gọi mãnh liệt để khám phá và hiểu rõ hơn về mình, về quê hương yêu dấu.

Sự ngậm ngùi, day dứt trong những dòng thơ này khiến cho tâm hồn độc giả được chạm vào những cảm xúc sâu sắc nhất của tác giả. Niềm nhớ không chỉ là một khối lượng tâm trạng, mà còn là một chuyến hành trình tinh thần, tìm kiếm sự bình yên, yên bình, và tìm thấy sự hoàn hảo trong kí ức về quê nhà. "Gì sâu bằng" không chỉ là một câu hỏi, mà còn là một câu trả lời tự nhiên, là đường dẫn dẫn dắt độc giả đến với một thế giới đầy những cảm xúc sâu sắc và thiêng liêng.

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...

Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh về cuộc sống thôn quê mộc mạc và đậm chất thân thương như một mảng tranh sống động, tươi sáng bắt đầu hiện lên trước mắt người tù cộng sản. Tưởng tượng của tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh đồng lúa, khóm tre, hay những nương rẫy, mà còn mở rộng đến con người, những người nông dân chân chất, mang trên vai gánh nặng cơ cực nhưng trái tim ấm áp và tình người.

Tác giả không chỉ vẽ nên cảnh quê hương bình dị mà còn là những cây cỏ, mái nhà tranh, hòn non bộ, và mọi đường nét cuộc sống nơi đây. Bức tranh sống động đầy ánh sáng và màu sắc, đã chứng minh tình yêu thương và tình người của người làm thơ. Cảm giác ấm áp, như bức tranh hiện hữu trong tâm tư của nhà thơ, khiến cho người đọc không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận được hương thơm, âm thanh và màu sắc đặc trưng của cuộc sống thôn quê.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Bóng dáng của người mẹ trong thơ như một bức tranh tình cảm, một dấu ấn đậm nét của tình thương và sự hi sinh. Mỗi chi tiết, từng giai điệu của từng từ trong "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là những hòn đá gieo rắc trên đường đi của tâm hồn, làm tăng thêm vị chua ngọt của những trải nghiệm và ký ức. Người mẹ trở thành nguồn cảm hứng, là điểm nối vững chắc giữa tâm hồn bất an và những giọt nước mắt u buồn. Tình cảm chảy tràn trong từng lời thơ, đưa độc giả về quãng thời gian đẹp đẽ và tuyệt vời, khi người chiến sĩ trẻ còn đầy ắp niềm tin và đam mê, khi họ chập chững bước vào con đường cách mạng.

"Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là lời kể của chính người chiến sĩ, làm nổi bật nỗi lòng như một khúc hát lưu luyến, giữa những tháng ngày giam giữ. Mỗi từ ngữ, mỗi giai điệu là một nốt nhạc, là một bản tình ca ngắn ngủi về quê hương, về mẹ hiền, và về những ngày tháng yên bình trước khi cuộc sống biến đổi. Như một đám mây điệp khúc, "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." mở cánh cửa cho độc giả thâm nhập sâu vào tâm trạng, làm rõ nét hình ảnh của người mẹ thương yêu và tình yêu bất tận của người con chiến sĩ. Câu thơ này không chỉ là nỗi niềm và tâm sự, mà còn là sự tri ân và biểu tượng của lòng trung thành với quê hương và người thân yêu.

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Bài thơ "Nhớ đồng" không chỉ là một tâm sự về quê hương mà còn là bức tranh tinh tế về tâm hồn của một người chiến sĩ cộng sản. Tác giả không chỉ nhớ về quá khứ u ám mà từ đó, ông mạnh mẽ khẳng định sự sáng suốt và đúng đắn của niềm tin cách mạng. Niềm hạnh phúc khi chấp nhận lý tưởng cách mạng hiện hóa trong tâm hồn, như một cơn say đắm niềm tin và khao khát hoạt động cách mạng, không chỉ giúp ông thoát khỏi tâm trạng u buồn mà còn trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi". Tác giả tự so sánh mình với những con chim tự do, tự tại, bay bổng trong không gian rộng lớn của đồng quê, cảm nhận sự say mê trong đồng hương nắng, giống như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Mặc dù, ngay cả khi đối mặt với thực tại khắc nghiệt của lao tù, những dòng thơ cuối cùng không khỏi nổi lên tâm trạng bất lực, bế tắc không có lối thoát. Tuy nhiên, tư tưởng và khát vọng về quê hương và cách mạng vẫn mãnh liệt, cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản. Bài thơ là một diễn đàn tinh tế, nơi hiện lên hình ảnh của một chiến sĩ yêu lý tưởng cách mạng, một con người hy sinh vì Tổ quốc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên