Top 20 Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi (siêu hay)

Tổng hợp các bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi (siêu hay)

Quảng cáo

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 1

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều có nhiều tác phẩm đặc sắc viết cho thiếu nhi. “Bầy chim chìa vôi” là một trong những tác phẩm đó. Truyện gửi gắm nhiều bài học ý nghĩa, sâu sắc.

Nhân vật chính trong truyện là Mon và Mên. Tình huống truyện được tác giả xây dựng khá độc đáo. Khoảng hai giờ sáng, Mon tỉnh giấc rồi quay sang gọi anh trai là Mên. Liên tiếp những câu hỏi như: “Anh bảo mưa có to không?”, “Nhưng anh bảo ước sông có lên to không?” đã bộc lộ được vẻ lo lắng, bồn chồn của Mon. Những câu hỏi dồn dập khiến Mên gắt lên: “Bảo cái gì mà bảo lắm thế”. Nhưng khi nghe Mon nói rằng: “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”, Mên cũng hiểu ra. Đáp lại câu nói của em trai, Mên cũng bộc lộ sự lo lắng: “Tao cũng sợ”. Thế rồi, cả hai đều không ngủ được, tiếp tục trò chuyện. Mon kể cho Mên nghe chuyện mình lén thả con cá bống mà bố đã bắt được. Mên không trách mắng em mà chỉ bật cười khoái chí. Qua chi tiết này, có thể thấy được sự hồn nhiên, thơ ngây của hai nhân vật này.

Sau một hồi bàn bạc, Mon đề nghị ra bờ sông cứu bầy chim chìa vôi. Không ngại mưa gió, nguy hiểm, hai anh em lấy đò của ông Hảo để đi. Có thể thấy, Mon và Mên là những cậu bé dũng cảm, giàu tình yêu thương loài vật. Cả hai tiếp tục trò chuyện. Khi đến gần bờ sông Mon và Mên lập cập tụt xuống khỏi đò. Mên quấn cái dây buộc đò vào người rồi gò lưng kéo, Mon lội bì bõm phía sau. Cho đến khi hai anh em đưa được con đò trở về chỗ cũ thì trời đã tang tảng sáng. Cả hai chạy ngược lên đoạn bờ sông đối diện với bãi cát. Mon lại hỏi Mên xem bờ sông đã ngập hết chưa, cánh chim có bay được không. Câu nói của Mon: “Anh ơi, có khi bố dậy rồi đấy” khiến cho cả hai lòng đầy lo sợ. Thì ra, chúng cũng vẫn là những đứa trẻ biết lo sợ bị bố mẹ mắng, vậy mà suy nghĩ và hành động lại thật đáng trân trọng.

Quảng cáo

Đặc biệt, tác giả đã khắc họa một khung cảnh tuyệt đẹp. Khi bình minh đã đủ để soi rọi những hạt mưa trên mặt sông, cũng là lúc dòng nước khổng lồ đã nuốt chửng phần còn lại của bãi cát. Những cánh chim chìa vôi bé bỏng đã ướt át bứt ra khỏi mặt nước, dương cao đôi cánh bay lên trời cao. Từ chiều qua, nước đã dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy con tránh nước đến đó. Những chú chim nhảy đến phần cao nhất của dải cát, nhảy lò cò trên những đôi chân mảnh dẻ chưa thật sự cứng cáp. Bỗng một con chim đuối sức. Đôi cánh của nó dừng lại, rơi như một chiếc lá, thế nhưng nó vẫn kiên cường dùng sức lực của chính bản thân mình để bay lên hòa mình với bầy đàn. Hình ảnh cuối truyện Mon và Mên đứng yên không nhúc nhích. Khuôn mặt tái nhợt vì nước mưa hừng lên ánh ngày. Cả hai nhận ra đã khóc từ lúc nào. Đó là giọt nước mặt của sự xúc động, tình yêu thương.

Như vậy, truyện ngắn Bầy chim chìa vôi, tác giả đã gửi gắm thông điệp sâu sắc. Chúng ta cần sống hòa hợp, gắn bó và yêu thương loài vật.

Quảng cáo

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 2

Tình yêu thương của con người không chỉ được thể hiện qua người với người, nó còn được thông qua những hành động tốt đẹp của con người đối với động vật. Điều này được tác giả Nguyễn Quang Thiều biến thành một câu chuyện ý nghĩa, gửi tới người đọc qua tác phẩm Bầy chim chìa vôi.

Bầy chim chìa vôi là một hình ảnh hai nhân vật Mon và Mên đã nhìn thấy ở bờ sông, những chú chim non xinh đẹp đang chập chững bay. Nhưng ngay tối hôm đó, trời đổ cơn mưa tầm tã. Hai anh em đã không quản khó khăn và mưa gió, chạy tới bờ sông cứu những chú chim tội nghiệp. Nhờ hành động này, những chú chim con không bị chết đuối, có thể cất cánh bay lượn vào rạng sáng khi trời vừa hửng nắng.

Quảng cáo

Trong truyện, hai nhân vật Mon và Mên được tác giả xây dựng rất chi tiết, từ đó làm nổi bật nên nội dung và ý nghĩa truyện. Đầu tiên là người em Mon, tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu bé là một người tinh tế. Cậu lo cho những chú chim, giữa buổi đêm mưa gió muốn ra giúp chúng. Tuy nhiên, cậu bé vẫn có những nỗi sợ nho nhỏ như sợ bố tỉnh giấc, hay lo lắng khi đi một mình. Vậy là, thực ra cậu bé đó còn rất nhỏ, vẫn hồn nhiên và đầy ngây thơ. Còn về người anh Mên, cậu cũng là một người yêu thương động vật và cũng rất nhạy cảm. Dù bị làm phiền, nhưng khi nghe em nói về bầy chim, cậu vẫn thức dậy đi cùng em trai. Hình ảnh cậu bé ngước lên nhìn lũ chim bay đi trong nắng đầu ngày đã thực sự chạm đến trái tim của người đọc.

Nhờ những hình ảnh đẹp đẽ và bút pháp tả cảnh tài tình, khung cảnh cánh chim bay lên trong nắng và đôi mắt ướt nước của hai anh em đã làm nhiều người rung động. Quãng thời gian của truyện được tác giả tả theo thời gian, khiến cho logic của truyện được triển khai mạch lạc. Qua đây, người đọc cũng thấy được hình ảnh của hai anh em hiện lên chân thực, đầy tình yêu thương và thể hiện rõ chủ đề câu chuyện mà tác giả Nguyễn Quang Thiều muốn truyền tải đến người đọc.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 3

Truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi” là một trong những tập truyện ngắn nổi bật của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Nhân vật Mon trong văn bản được tác giả làm nổi bật với tình yêu thương vạn vật và tấm lòng trân trọng sự sống.

Trong đêm mưa, Mon không ngủ mà trằn trọc lắng lo cho sự an nguy của bầy chim chìa vôi. Cậu liên tục hỏi anh Mên “Anh bảo có mưa to không?”, “Nhưng anh bảo nước sông lên có to không?”, “Thế cái bãi cát giữa sông đã ngập chưa?”, “Thế anh bảo chúng nó có bơi được không?”. Mặc kệ, thái độ cáu gắt của Mên, Mon vẫn kiên nhẫn hỏi anh về tình hình bên ngoài. Cứ chốc chốc, Mên lại thì thào gọi, rồi hỏi “Anh đã nhìn thấy chim chìa vôi nó bay từ bãi cát vào bờ bao giờ chưa?”, “Thế làm thế nào bây giờ?”. Thậm chí, Mon không màng tới thời tiết ngoài kia, thương xót bầy chim đến nỗi rủ Mên đi mang bầy chim vào bờ. Thông qua những câu hỏi và lời nói của Mon, ta có thể thấy được tình yêu thương động vật sâu sắc mà Mon dành cho bầy chim chìa vôi.

Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ cứu bầy chim đem vào bờ, Mon quyết định theo Mên ra bờ sông xem con nước đã ngập hết bãi cát hay chưa. Trời nhá nhem tối, hai anh em vẫn căng mắt nhìn ra giữa sông. Sự vui mừng thể hiện rõ khi Mon chợt kêu lên: “Anh ơi, kia kìa, bãi cát.”. Chứng kiến cảnh những chú chim bứt ra khỏi dòng nước bay lên, Mon choáng ngợp tới nỗi không nói được lời nào. Có lẽ, trong khoảnh khắc “như huyền thoại ấy”, cậu vừa bất ngờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa hạnh phúc khi thấy bầy chim vẫn còn sống. Sau tất cả những gì vừa diễn ra, Mon thấy tim mình đập những nhịp hối hả. Mon khóc lúc nào mà không hề hay biết bởi “Cuối cùng bầy chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng, đầu tiên và kì vĩ nhất trong đời chúng”. Đó là những giọt nước mắt của sự sung sướng, bật ra từ một tâm hồn mong manh, nhạy cảm và tràn đầy niềm yêu thương.

Bằng ngôn từ trong sáng, hình ảnh gần gũi và cách xây dựng nhân vật thông qua lời nói, hành động, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Mon với tình yêu động vật và tấm lòng trân trọng sự sống sâu sắc.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 4

“Bầy chim chìa vôi” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều là một tác phẩm với những hình ảnh mô tả tươi đẹp và lớn tiếng về tình yêu thương động vật và thiên nhiên. Đặc biệt, khung cảnh cuối truyện mang đến sự cảm động và dấn thân tâm hồn của độc giả vào câu chuyện.

Nhân vật chính trong truyện là hai anh em Mon và Mên. Tác giả xây dựng tình huống mở đầu bằng một cuộc trò chuyện giữa hai anh em vào khoảng hai giờ sáng, khi mà mọi người đang ngủ say trong một đêm mưa. Mon bắt đầu bằng việc hỏi về thời tiết và tình hình dòng sông. Những câu hỏi đó ban đầu có vẻ lặp đi lặp lại, nhưng chúng thể hiện sự quan tâm và lo lắng của Mon đối với loài chim chìa vôi. Tình huống này cho thấy tấm lòng nhân hậu và tình yêu thương của các nhân vật đối với động vật và thiên nhiên.

Không chỉ có Mon, Mên cũng chia sẻ sự lo lắng này và hiểu rằng họ cùng nhau phải làm gì đó để giúp các con chim chìa vôi non tránh khỏi đuối nước. Truyện thể hiện tình cảm mạnh mẽ giữa hai anh em và ý nghĩa của việc giúp đỡ người khác trong lúc cần. Tác giả cũng sử dụng chi tiết về việc Mon đã lén thả con cá bống mà bố đã bắt được để tạo ra một tình huống hài hước và thể hiện tính cách hồn nhiên, thơ ngây của các nhân vật trẻ trong truyện.

Tác giả sử dụng mô tả tinh tế để khắc họa khung cảnh bãi cát giữa sông và cuộc sống của chim chìa vôi. Khi bình minh đến, cảnh tượng trở nên rạng ngời với ánh nắng soi rọi hạt mưa trên mặt sông. Tuy nhiên, cũng là lúc dòng nước đang dâng cao, dần nuốt chửng phần còn lại của bãi cát. Mô tả này thể hiện sự tương tác phức tạp giữa thiên nhiên và động vật, và sự cường đại của tự nhiên. Hình ảnh những chú chim chìa vôi bé nhỏ, yếu đuối đang nỗ lực bay lên trời khi dải cát bị ngập nước là một tượng trưng cho sự kiên cường và ý chí sống sót. Đặc biệt, con chim đuối sức vẫn cố gắng bay lên mặc dù đôi cánh của nó đã dừng lại, thể hiện sự bất khuất và quyết tâm đối diện với khó khăn. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh này để truyền tải thông điệp về sự bền bỉ và sự quý báu của cuộc sống.

Cuối cùng, tác giả miêu tả Mon và Mên đứng yên và không nhúc nhích, với khuôn mặt tái nhợt và đôi mắt ướt át. Họ đã khóc, và giọt nước mắt này không chỉ là của xúc động mà còn là biểu tượng cho tình yêu thương và sự hiểu biết đối với cuộc sống và thiên nhiên. Đây là phần quan trọng nhất của truyện, khi tác giả truyền tải thông điệp về tình yêu thương, lòng nhân ái và ý nghĩa của việc chúng ta cần hòa hợp và gắn bó với thiên nhiên.

Tác giả sử dụng ngôn ngữ đơn giản, giúp tạo nên sự dễ tiếp cận và thân thiện với độc giả, đặc biệt là trẻ em. Câu chuyện được kể qua góc nhìn thứ ba, giúp độc giả cảm nhận và đồng cảm với tâm trạng của hai anh em. Tuy truyện dành cho trẻ em, nhưng nó truyền tải một thông điệp sâu sắc về tình yêu thương động vật và tình hữu nghị giữa con người. Tác phẩm khuyến khích trẻ em hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc chia sẻ và giúp đỡ người khác, cũng như sẵn sàng đối diện với khó khăn và vượt qua chúng. Tác giả sử dụng mô tả tinh tế, sử dụng từ ngữ sống động và hình ảnh sinh động để tái hiện một khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của chim chìa vôi. Hình ảnh của con chim đuối sức và hình ảnh Mon và Mên đứng yên trong cảnh mưa sáng đã tạo nên sự cảm động và lôi cuốn độc giả vào câu chuyện.

Tóm lại, “Bầy chim chìa vôi” không chỉ là một câu chuyện về tình yêu thương động vật và thiên nhiên mà còn là một bài học về ý nghĩa của cuộc sống, lòng kiên cường và sự đoàn kết trong đối mặt với khó khăn.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 5

Nguyễn Quang Thiều là một tác giả nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, được biết đến với nhiều tác phẩm đặc sắc cho thiếu nhi. Trong đó, Bầy chim chìa vôi là một trong những tác phẩm hay nói về những nghĩa cử cao đẹp của trẻ em, là một tấm gương sáng cho nhiều người học hỏi.

Tình huống truyện được tác giả xây dựng là vào một đêm mưa bão, lúc 2 giờ sáng nhân vật người em - Mon tỉnh giấc. Thấy trời đang mưa to, người em lại lo lắng cho những chú chim chìa vôi con ở ngoài bờ đê. Nó sợ chúng sẽ bị ngập nước rồi chết rét mất. Vậy là, Mon gọi anh trai của mình là Mên, muốn cùng anh ra ngoài đó để cứu những chú chim con. Bằng những câu hỏi dồn dập như “Anh bảo mưa có to không?”, “Nhưng anh bảo ước sông có lên to không?”, Mon đã thể hiện được sự lo lắng và vội vàng của mình. Tuy nhiên, đang trong giấc ngủ bị gọi dậy, người anh có vẻ cáu gắt lên tiếng nạt em mình: “Bảo cái gì mà bảo lắm thế”. Ban đầu, người đọc có thể cảm thấy nhân vật anh khá “phản diện”, tuy nhiên, đây là phản ứng bình thường của một đứa trẻ gắt lên khi bị làm phiền. Nhất là ngay sau đó, khi biết được vấn đề của em trai, người anh cũng mềm lòng và quyết định theo em ra bờ sông để xem những chú chim nhỏ.

Qua tình huống truyện trên, tác giả đã cho người đọc thấy được tình yêu thương động vật của hai đứa trẻ dù chẳng lớn tuổi. Chúng bất chấp tất cả dù là nửa đêm, dù là mưa bão vẫn cố gắng cứu những chú chim nhỏ tội nghiệp. Cảnh cuối cùng, khi mặt trời bắt đầu hửng nắng, mưa đã tạnh, những chú chim vươn cánh bay đi. Lúc này, hai anh em đứng dưới ánh nắng sớm, ngẩng mặt lên nhìn chúng và cảm động đến chảy nước mắt. Chúng không làm việc cao cả quá, nhưng chính những điều nhỏ nhặt ấy đã cứu những chú chim khỏi cảnh chết đuối.

Nhờ sự cứng cáp trong việc miêu tả nhân vật, tác giả Nguyễn Quang Thiều đã cho người đọc thấy được một bức tranh cảm động về hai anh em và bầy chim chìa vôi ở ngoài sông. Từ đó, tình thương của con người cũng được thể hiện rõ, từ những đứa trẻ và từ những loài vật nhỏ.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 6

Gắn bó với tuổi thơ của biết bao thế hệ thiếu nhi, nhà văn Nguyễn Quang Thiều sở hữu nhiều tác phẩm đặc sắc, mang đậm dấu ấn. Trong đó, tác phẩm “Bầy chim chìa vôi” là một trong số truyện tiêu biểu đón nhận sự yêu mến nhất là độc giả nhỏ tuổi. Tác phẩm là một câu chuyện đẹp về tình yêu, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Qua câu chuyện, chúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương của những đứa trẻ đối với bầy chim chìa vôi nhỏ bé nhưng kiên cường, dũng cảm; mag đến cho bạn đọc những bài học ý nghĩa, giá trị trong cuộc sống.

Truyện ngắn bắt đầu từ cuộc nói chuyện và suy nghĩ của hai anh em Mên và Mon về tổ chìa vôi có thể bị nước sông nhấn chìm. Với tấm lòng nhân hậu, hai anh em quyết định đi tới sông ngay trong đêm mưa. Tận mắt nhìn thấy những chú chim non bay lên từ bãi cát giữa sông vào lúc bình minh, trong lòng hai anh em trào lên sự vui vẻ, cảm động khó tả. Giữa đêm mưa, Mon và Mên đều khó ngủ, lí do bắt nguồn từ sự lo lắng nước sông dâng cao ngập bãi sông, hai anh lo lắng cho những chú chim chìa vôi non sẽ bị chết đuối. Sau khi trải qua cả đêm vật lộn, bình minh đã đến, hai anh em cũng đã tới bãi sông. Khung cảnh bình minh hiện ra đẹp kì diệu, ánh bình minh rọi sáng những hạt mưa trên mặt sông thì một cảnh tượng như huyền thoại hiện ra, từ mặt nước những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên. Cuộc cất cánh của bầy chim chìa vôi non xảy ra một cách bất ngờ và ngoạn mục, khiến hai anh em im lặng, hai đứa đứng không nhúc nhích, xúc động đến phát khóc khi thấy bầy chim non bay lên và hạ cánh an toàn bên một lùm dứa dại bờ sông. Đây là một khung cảnh vô cùng cảm động trong mắt hai bạn nhỏ, bởi với những chú chim, bầy chim non thực hiện xong chuyến bay đầu tiên, quan trọng trong cuộc đời của chúng, còn với Mon và Mên, đây là khung cảnh vỡ òa sau bao lo lắng, bất an của hai anh em.

Với chủ đề viết về tuổi thơ và thiên nhiên (truyện về hai đứa trẻ và bầy chim chìa vôi bên bãi sông gắn bó với quê hương) tác phẩm thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm, trong sáng, tràn đầy tình yêu thương vạn vật xung quanh. Không những thế tác phẩm còn khắc hoạ những cậu bé dũng cảm, dám hành động, biết quan tâm, yêu thương những gì diễn ra xung quanh mình. Câu chuyện mà nhà văn mang đến nhận được nhiều sự chú ý của độc giả trong cách khai thác đề tài, chủ đề gần gũi cuộc sống nhưng chứa đựng ý nghĩa, giá trị nhân sinh sâu sắc.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã đưa người đọc trở về thế giới tuổi thơ với việc xây dựng nhân vật hai anh em Mên và Mon đầy nghệ thuật. Miêu tả tâm lí tinh tế, ngôn ngữ đối thoại sinh động; đặt nhân vật vào tình huống mang tính thử thách để bộc lộ tính cách. Người đọc theo dõi hành trình câu chuyện từ hai giờ sáng đến bình minh thức dậy bằng cách nói chuyện lo lắng, quan tâm dành cho những chú chim chìa vôi non ở đầu câu chuyện, đến hành động ra sống để cứu bầy chim rồi khó trong sự sung sướng bất ngờ ở cuối truyện ... Với tính cách trẻ thơ hồn nhiên và trong sáng cùng với đó là một tấm lòng yêu thương động vật và trân trọng sự sống của hai anh em. Qua những cử chỉ, hành động và lời nói của các nhân vật thế giới tình yêu thương, sự vô tư, hồn nhiên, trong sáng qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã thể hiện.

Chúng ta dễ nhận thấy dù là em nhỏ, nhưng Mon có những suy nghĩ, lo lắng xuất phát từ trái tim tốt bụng, biết quan sát, lanh lợi và rất đáng yêu. Cậu bé không thể chìm vào giấc ngủ vì lo cho sự sống những chú chim nhỏ có thể bị dòng nước cuốn trôi, liên tục đặt ra những câu hỏi với chi tiết lặp lại: “anh bảo…” đi kèm với các sự việc: mưa to không, nước sông lên có to không, bãi cát giữa sông đã ngập chưa, những con chìa vôi… Dù Mon đã cố nghĩ sang chuyện vui khác, nhưng suy nghĩ của em vẫn hướng tới bầy chim chìa vôi trên sông, em rất lo cho tổ chim chìa vôi. “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Nghĩ thế, sự ngập ngừng dần trở nên quyết đoán, khiến Mon đề xuất với anh Mên: “Hay mình mang chúng nó vào bờ?” và dần thành một câu khẳng định, quả quyết: “Mình phải đem chúng nó vào bờ, anh ạ”. Quyết định đi cứu những chú chim non không phải đến từ anh Mên mà lại chính là Mon càng thể hiện sự dũng cảm, nhân hậu và lòng quyết tâm của Mon.

Người anh trai Mên trong truyện ngắn khá yên tĩnh, có phần cục cằn và hay gắt gỏng, thế nhưng bên trong đó lại là một cậu bé biết suy nghĩ, ấm áp và giàu lòng nhân hậu. Tuy không đặt ra nhiều câu hỏi như em Mon, nhưng Mên vẫn trả lời bằng một thái độ tỉnh táo, và hóa ra cậu bé cũng không ngủ được. Mên cũng nằm im, cố đưa mình vào giấc ngủ, nhưng khi Mon nhắc lại một lần nữa: “Tổ chim sẽ bị chìm mất”, Mên im lặng nhưng sau lại hỏi: Thế làm thế nào bây giờ?. Im lặng một phút rồi đưa ra câu hỏi “Đi bây giờ à?”, đây không phải câu hỏi thể hiện sự chần chừ mà là một lời nói giúp em trai Mon chắc chắn về quyết định của mình. Bên cạnh đó nhân vật Mên là một cậu bé tuy mang nét tính cách tinh nghịch của trẻ em nhưng lại có vẻ trưởng thành của người lớn. Vẻ trưởng thành ấy của Mên đã được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ với chính em trai của mình tên là Mon. Hình dáng của Mên càng thêm chín chắn và trưởng thành qua chính sự tin tưởng, sự dựa dẫm và cách đặt câu hỏi liên tiếp về mọi thắc mắc của em Mon. Mên luôn là người giải đáp và chỉ huy mọi việc cho cả hai anh em cùng nhau làm trong tất cả mọi tình huống. Chẳng hạn như những việc quyết định lấy đò, chèo ra bờ sông để cùng nhau xem bầy chim chìa vôi non, hay là kéo đò vào bờ để cất kẻo bị trôi đò trong đêm mưa. Nhưng ở cậu bé Mên này, cũng lộ rõ những nét trẻ con có những nét trẻ con. Tính cách trẻ con ấy của Mên được thể hiện qua những lần cậu bé chợt sợ hãi khi nghĩ về bố của mình, đây là một chi tiết khá là thú vị, bởi tâm lý của trẻ em bao giờ cũng sẽ sợ bố mình.

Cùng với người em của mình ẩn sâu bên trong ở nhân vật Mên, thì đó chính là cậu bé có một trái tim đầy sự ấm áp, giàu tình yêu thương. Những hành động lo lắng của cậu dành cho người em trai khi trong đêm mưa gió Mên đã cùng em trai chèo đò ra bờ sông mục đích là kiểm tra tình hình mấy chú chim chìa vôi non thế nào. Chính điều này đã thể hiện được cậu bé Mên có một tâm hồn giàu tình yêu thương. Sự yêu thương đó, được thể hiện qua tâm lí của cậu, từ việc cậu lo lắng, rồi vỡ oà trong vui sướng cho đến bật khóc khi những chú chim chìa vôi đã được an toàn.

Ngoài ra nhà văn mang đến sự bất ngờ, hấp dẫn của câu chuyện bằng tình huống truyện được tác giả xây dựng khá độc đáo. Khoảng hai giờ sáng, Mon tỉnh giấc rồi quay sang gọi anh trai là Mên. Liên tiếp những câu hỏi như: “Anh bảo mưa có to không?”, “Nhưng anh bảo ước sông có lên to không?” đã bộc lộ được vẻ lo lắng, bồn chồn của Mon. Những câu hỏi dồn dập khiến Mên gắt lên: “Bảo cái gì mà bảo lắm thế”. Nhưng khi nghe Mon nói rằng: “Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”, Mên cũng hiểu ra. Đáp lại câu nói của em trai, Mên cũng bộc lộ sự lo lắng: “Tao cũng sợ”. Thế rồi, cả hai đều không ngủ được, tiếp tục trò chuyện. Qua chi tiết này, có thể thấy được sự hồn nhiên, thơ ngây của hai nhân vật này. Ngoài ra chi tiết khi nước dâng lên cũng là lúc bầy chim chìa vôi kịp tung cánh bay lên trong cảnh bình minh. Chứng kiến những cánh chim chìa vôi bé bỏng đã ướt át bứt ra khỏi mặt nước, dương cao đôi cánh bay lên trời cao trong sự bất ngờ, hạnh phúc đến rơi nước mắt của hai bạn nhỏ vì sự xúc động, vì tình yêu thương. Như vậy việc xây dựng các tình huống bất ngờ trong truyện giúp chuyện kể thêm thú vị, tăng tình tiết câu chuyện, phù hợp tiếp nhận của bạn đọc nhỏ tuổi.

Các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh cũng được nhà văn triệt để sử dụng góp phần tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt, giúp truyện kể về thế giới thiên nhiên trở lên gần gũi với con người nhất là trẻ thơ. Đó là khung cảnh thiên nhiên đầy ánh sáng bằng các hình ảnh nhân hoá, so sánh cùng cảnh tượng “như huyền thoại” khi bầy chim bay lên bằng trong sự ngỡ ngàng, vỡ oà cảm xúc của Men và Mon. Đó là cách miêu tả bầy chim chìa vôi với các chi tiết chim bố và chim mẹ lo lắng, chăm sóc cho bầy chim non: “dẫn bầy chim non đi tránh nước”, “đập cánh như để dạy và khuyến khích”, “sốt ruột mong đàn con chúng có đủ sức nâng mình lên...” thể hiện giàu tình yêu thương, lo lắng và hết lòng hi sinh vì con. Việc bầy chim cần làm để thoát khỏi dòng nước: Tự bản thân phải nỗ lực hết sức; chọn và quyết định, quyết liệt, dứt điểm, đúng thời điểm mới chiến thắng được dàng nước lũ đang dâng lên. Đồng thời đã cho thấy sức sống mãnh liệt và kì diệu của thế giới tự nhiên. Bầy chim non bé bỏng vụt bứt ra khỏi dòng nước và bay lên cao được nhà văn ví như “chuyến bay kì vĩ và quan trọng nhất trong đời” là bước khởi đầu biết tự lập bay để thoát khỏi thử thách nguy hiểm; khẳng định sức sống mãnh liệt của bản thân; đánh dấu sự trưởng thành...đã để lại nhiều bài học cho mỗi chúng ta về việc đối mặt và vượt qua khó khăn thử thách trong cuộc sống.

Một trong những đặc sắc góp phần thành công của câu chuyện phải kể đến việc nhà văn lựa chọn dùng ngôi kể thứ 3, vốn là ngôi kể khách quan chứng kiến toàn bộ cảnh hai anh em Mên và Mon từ khi tỉnh giấc đến khi học chứng kiến cảnh huy hoàng bay lên của bầy chim chìa vôi trong cảnh bình minh đầy ngoạn mục. Ngôi kể này có khi cùng với người kể chuyện dẫn dắt truyện kể: “Khoảng hai giờ sáng Mon tỉnh giấc. Nó xoay mình sang phía anh nó, thì thào gọi: - Thằng Mên hỏi lại, giọng nó ráo hoảnh như đã thức dậy từ lâu lắm rồi”; có khi là lời nhân vật: “- Anh Mên ơi, anh Mên!; - Gì đấy? Mày không ngủ à?” cho thấy sự linh hoạt và sáng tạo trong ngôi kể của nhà văn để giúp hai nhân vật Mon và Mên từ người đọc trở nên thú vị, chân thực và đặc biệt hơn. Cùng với đó là sự kết hợp ngôn ngữ gần gũi giúp cho các nhân vật được thể hiện một cách chân thực, sinh động, tự nhiên không chỉ góp phần thể hiện chủ đề ý nghĩa nhân văn câu chuyện mà còn thể hiện tài năng, sự tinh tế trong việc nắm bắt “thế giới ngôn ngữ trẻ thơ” giàu cảm xúc, trong trẻ, hồn nhiên và nhạy cảm trước những gì xảy ra trong cuộc sống.

Có thể nói với truyện ngắn Bầy chim chìa vôi, Nguyễn Quang Thiều đã gửi gắm biết bao thế hệ bạn đọc cảm nhận được những điều ý nghĩa tốt đẹp nhân văn từ những câu chuyện nhỏ của hai đứa trẻ đối với bầy chim chìa vôi bằng chính sự ngây thơ, tình cảm trong sáng, hồn nhiên, tấm lòng nhân hậu, yêu thương.Truyện bồi dưỡng lòng trắc ẩn, tình yêu loài vật, yêu thiên nhiên xung quanh chúng ta. Từ câu chuyện mỗi chúng ta cảm nhận, hiểu sâu sắc thêm thông điệp về cuộc sống: Con người cần sống hòa hợp và gắn bó hơn với thiên nhiên, với muôn loài. Đó là một phần của cuộc sống.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 7

“Bầy chim chìa vôi” là một trong những truyện ngắn vô cùng ý nghĩa dành cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là thanh thiếu niên. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều khi đăng tải truyện ngắn đã nhắn nhủ: “Hy vọng những cậu bé, cô bé – những công dân tương lai của chúng ta mang một tấm lòng nhân ái để bảo vệ thế gian này đang bị chính người lớn chúng ta tàn phá.”

Đây cũng chính là điều mà hai nhân vật chính Mon và Mên trong câu chuyện đã làm được. Hai cậu bé cho người đọc một cảm giác gần gũi, nhẹ nhàng, vừa dũng cảm, đáng yêu.

“Bầy chim chìa vôi” là tác phẩm truyện ngắn kể về hai cậu bé Mon và Mên cùng những suy nghĩ, hành động bảo vệ tổ chim chìa vôi trong đêm bão, câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba thú vị, hấp dẫn, cùng với nghệ thuật miêu tả nhân vật qua lời đối thoại đặc sắc đã làm nổi bật lên hình ảnh hai cậu bé Mon và Mên vừa dễ thương, vừa giàu lòng nhân ái.

Mở đầu câu chuyện là khoảng thời gian đêm khuya với sự trằn trọc của hai cậu bé. Mon tuy là em trai, nhưng cậu bé lại chính là người bắt đầu những câu hỏi thể hiện sự lo lắng về tổ chim chìa vôi. Cậu bé liên tục hỏi anh Mên: “Anh ơi… em bảo…”, sau đó là hàng loạt những câu hỏi thắc mắc về tổ chim chìa vôi: “Thế bãi cát giữa sông đã ngập chưa?”; “Thế anh bảo chúng có bơi được không?”; “Sao nó lại không làm tổ trên bờ hả anh?”; “Thế làm thế nào bây giờ?”…

Liên tục những câu hỏi lặp lại cho thấy suy nghĩ non nớt nhưng vô cùng lo lắng cho tổ chim chìa vôi ở bãi cát giữa sông. “Những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất”. Thậm chí, có thể do quá lo lắng, em Mon còn đặt ra thắc mắc tại sao những chú chim chìa vôi lại làm tổ trên bãi cát giữa sông như vậy?

Tại sao chúng không lựa một nơi an toàn, cao và khô ráo hơn, để chúng an toàn trong đêm mưa bão, và cũng để cho hai anh em Mon và Mên bớt lo lắng, suy nghĩ về sự an toàn của bầy chim.

Sau một hồi xoay mình qua lại, thì thầm khó ngủ, cố gắng suy nghĩ sang chuyện khác thì Mon vẫn không thể ngủ được, bèn thủ thỉ với anh mình, ngập ngừng gọi “anh ơi…” rồi đưa ra quyết định rằng “mình phải đem chúng vào bờ, anh ạ”.

Đây là một quyết định quả quyết, thể hiện Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định. Quyết định đi cứu những chú chim non không đến từ anh Mên mà lại đến từ chính Mon, đây là điều thể hiện sự dũng cảm, nhân hậu và lòng quyết tâm của Mon.

Trái ngược với sự quan tâm trực tiếp từ Mon, anh trai của cậu bé – Mên lại có một cách lo lắng kín đáo hơn, tuy có chút cọc cằn nhưng lại vô cùng ấm áp. Khi em trai trằn trọc giữa đêm không ngủ, thực chất anh Mên cũng chưa ngủ được, cũng vì thế nên cậu bé mới trả lời em trai một cách tỉnh táo và ráo hoảnh tới vậy.

Thay vì lo lắng trực tiếp và liên tục đặt ra câu hỏi, Mên lại đáp lại em trai một cách cục cằn: “Gì đấy? Mày không ngủ à?…”; “Bảo cái gì mà lắm thế?” hay “Tao không biết”. Dẫu vậy, anh Mên cũng bày tỏ nỗi lo lắng “Ừ nhỉ”, “Tao cũng sợ”. Để nỗi lo lắng qua đi, Mon và Mên đã nghĩ đến câu chuyện bắt cá cùng bố, cười “hi hi” khi nghe em Mon kể trò nghịch ngợm, nhưng dường như hai cậu bé vẫn không yên tâm chìm vào giấc ngủ.

Khi em Mon nhắc lại một lần nữa: “Tổ chim sẽ bị chìm mất”, Mên im lặng nhưng một lúc sau hỏi lại: Thế làm thế nào bây giờ?, cuối cùng im lặng một phút sau khi em trai đưa ra quyết định đi cứu tổ chim, đưa ra câu hỏi “Đi bây giờ à?”.

Đây không phải một câu hỏi thể hiện sự chần chừ của Mên mà chỉ là một lời nói giúp em trai Mon chắc chắn về quyết định của mình, chắc chắn hai anh em sẽ đi cùng nhau. Điều này cho thấy Mên là một người anh cọc cằn, hay tỏ ra gắt gỏng với em trai nhưng cũng có một tấm lòng ấm áp, nhân hậu, sự quan tâm của cậu bé thể hiện qua suy nghĩ và hành động chứ không qua lời nói.

Hai anh em sau thời gian rạng sáng vật lộn trên bờ sông với chiếc đò, cuối cùng đã đưa con đò về vị trí cũ, trời đã “tang tảng sáng”. Khung cảnh bình minh hiện lên với vẻ đẹp lạ kì cùng nhiều cảm xúc. Hai đứa trẻ chạy ngược lên đoạn bờ sông dối diện với dải cát, trong khi Mon tò mò về dải cát đã bị nhấn chìm hay chưa, thì anh Mên ngồi thụp xuống, căng mắt nhìn sát mặt sông.

Thật may, bãi cát chưa bị nước nhấn chìm hết. Bình minh đã đủ sáng để soi rõ những hạt mưa trên mặt sông, con nước bắt đầu dần lên và nuốt chửng dải cát. Trong những giây cuối cùng, bầy chim chìa vôi non cất cánh bay lên không trung tạo nên một “cảnh tượng như huyền thoại” trong mắt hai đứa trẻ.

Đây là thời điểm chín muồi, chim non đủ cứng cáp và ý thức được sự nguy hiểm của dòng nước sắp nuốt chửng chúng, cũng là thời điểm mà trong lòng hai anh em Mon và Mên trào lên cảm giác hạnh phúc, thành tựu và hạnh phúc khó tả. Hai anh em đứng không nhúc nhích, gương mặt tái nhợt vì nước mưa nhưng đã hửng lên ánh mặt trời ấm áp, hạnh phúc. Hai anh em quay lại nhìn nhau, đã khóc từ bao giờ.

Hai anh em Mon và Mên đều là những cậu bé dũng cảm, nhân hậu nhưng cũng vô cùng trong sáng, đáng yêu. Khung cảnh bầy chim chìa vôi bay lên từ bãi cát giữa sông đã tác động đến cảm xúc của hai đứa trẻ, đó là một cảnh đẹp, kì diệu và gỡ bỏ bao nhiêu lo lắng, bất an của hai anh em.

Qua hai nhân vật Mon và Mên, chúng ta càng thấy rõ hơn những phẩm chất tốt đẹp mà bất cứ thiếu niên nào cũng nên có: nhân hậu, dũng cảm, biết yêu thương loài vật, con người. Là một thiếu niên, hãy cùng nhau nuôi dưỡng và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của mình, để có thể giống như mong muốn của tác giả: những công dân tương lai của chúng ta mang một tấm lòng nhân ái để bảo vệ từng thứ nhỏ bé nhất trên thế giới này.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 8

“Bầy chim chìa vôi” là một truyện ngắn vô cùng đáng yêu, trong sáng nói lên tình cảm thương yêu vạn vật của 2 đứa trẻ. Chúng, hai anh em Mon và Mên biết quan tâm, lo lắng cho số phận của những chú chim chìa vôi ở bãi cát giữa sông.

Hạnh phúc khi thấy bầy chim non an toàn bay vào bờ. Sau khi đọc tác phẩm này của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em cảm nhận được những nét đẹp trong tâm hồn hai bạn nhỏ mà bất cứ người trẻ nào cũng có thể nhìn thấy mình và học tập được nhiều điều trong đó.

Truyện ngắn bắt đầu từ cuộc hội thoại và suy nghĩ của hai anh em Mên và Mon về tổ chìa vôi có thể bị nước sông nhấn chìm. Với tấm lòng nhân hậu, hai anh em quyết định đi tới sông ngay trong đêm mưa. Tận mắt nhìn thấy những chú chim non bay lên từ bãi cát giữa sông vào lúc bình minh, trong lòng hai anh em trào lên sự vui vẻ, cảm động khó tả.

Câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba thú vị, hấp dẫn, cùng nghệ thuật miêu tả nhân vật qua lời đối thoại đặc sắc, ngôn ngữ gần gũi giúp cho những lời đối thoại của các nhân vật được thể hiện một cách chân thực, sinh động… cũng nhờ đó mà việc cảm nhận và hình dung hai nhân vật Mon và Mên từ người đọc trở nên thú vị, chân thực và đặc biệt hơn.

Giữa đêm mưa, Mon và Mên đều khó ngủ, lí do bắt nguồn từ sự lo lắng nước sông dâng cao ngập bãi sông, hai anh lo lắng cho những chú chim chìa vôi non sẽ bị chết đuối. Dễ nhận thấy, em Mon là một cậu bé với tấm lòng nhân hậu liên tục nhắc về tổ chim và hỏi anh trai của mình – anh Mên về những câu hỏi cả hai không có lời đáp.

Có lẽ, những câu hỏi trên với chi tiết “anh bảo…” được lặp đi lặp lại 4 lần đi kèm với các dữ kiện: mưa to không, nước sông lên có to không, bãi cát giữa sông đã ngập chưa, những con chìa vôi… không nhằm mục đích nhận được câu trả lời, em Mon hỏi vì muốn giải tỏa nỗi lo lắng về bầy chim, anh Mên cũng không có câu trả lời mà chỉ cọc cằn đáp lại, để cuối cùng dẫn đến quyết định hai anh em sẽ đi “cứu” bầy chim, mang chúng vào bờ.

Lí do có sự lo lắng này đến từ thói quen làm tổ và đẻ trứng của bầy chim chìa vôi ở bãi sông quê. Vào mùa cạn, những đám rong héo dần làm thành một lớp đệm trên cát, những con chim chìa vôi bay ra bãi cát đẻ trứng, đây chính là bản năng sẵn có của bầy chim. Mon và Mên tuy đã cố gắng chìm vào giấc ngủ, nhưng những suy nghĩ miên man của Mon cùng với những câu hỏi ngập ngừng khiến hai đứa trẻ không ngừng suy nghĩ.

Tuy không trực tiếp lo lắng như Mon, nhưng anh Mên vẫn có cách quan tâm của riêng mình. Mỗi lần em hỏi, Mên đều trả lời ráo hoảnh như vẫn luôn thức, trả lời em đầy gắt gỏng nhưng bên trong cậu bé lại suy nghĩ, thầm lo lắng cho những chú chim chìa vôi non đến mức nằm im những không ngủ.

Vì vậy, nếu như Mon là một cậu bé mạnh mẽ, quá quyết, không thể bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm nước sông đang lên, từ những lo lắng đã biến thành quyết định đi cứu tổ chim trong đêm mưa, thì Mên là một người anh cọc cằn, hay tỏ ra gắt gỏng với em trai nhưng cũng có một tấm lòng ấm áp, nhân hậu, sự quan tâm của cậu bé thể hiện qua suy nghĩ và hành động chứ không qua lời nói.

Sau khi trải qua cả đêm vật lộn, bình minh đã đến, hai anh em cũng đã tới bãi sông. Khung cảnh bình minh hiện ra đẹp kì diệu, ánh bình minh rọi sáng những hạt mưa trên mặt sông thì một cảnh tượng như huyền thoại hiện ra, từ mặt nước những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên.

Cuộc cất cánh của bầy chim chìa vôi non xảy ra một cách bất ngờ và ngoạn mục, khiến hai anh em im lặng, hai đứa đứng không nhúc nhích, xúc động đến phát khóc khi thấy bầy chim non bay lên và hạ cánh an toàn bên một lùm dứa dại bờ sông. Đây là một khung cảnh vô cùng cảm động trong mắt hai bạn nhỏ, bởi với những chú chim, bầy chim non thực hiện xong chuyến bay đầu tiên, quan trọng trong cuộc đời của chúng, còn với Mon và Mên, đây là khung cảnh vỡ òa sau bao lo lắng, bất an của hai anh em.

Qua đây chúng ta thấy được tâm hồn trẻ thơ trong sáng, nhạy cảm, giàu tình yêu thương của 2 đứa trẻ dành cho những chú chú chim chìa vôi bé nhỏ. Qua truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi”, ta cảm nhận được những điều ý nghĩa từ những câu chuyện nhỏ, thấy được sự ngây thơ nhưng vô cùng nhân hậu, sự quyết tâm và dũng cảm của hai bạn nhỏ, đây cũng là một điều mà chúng ta, thậm chí là những người lớn vẫn còn phải học, phải yêu.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 9

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc dành riêng cho độc giả thiếu nhi. Trong danh mục tác phẩm đáng chú ý của ông, không thể không kể đến "Bầy chim chìa vôi." Bài thơ này chứa đựng nhiều thông điệp ý nghĩa và tận cùng lòng kính trọng thiên nhiên.

Bài thơ mở đầu bằng việc Nguyễn Quang Thiều miêu tả tình cảm thiêng liêng của mình đối với tự nhiên. Những khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mê hồn, bầu trời xanh trải dài và đồng lúa xanh mơn mởn được tác giả nêu bật với tâm hồn tinh tế. Điều này giúp đem lại cho chúng ta một trải nghiệm về sự kỳ vĩ và tuyệt diệu của thế giới tự nhiên, cũng như tôn vinh lòng yêu mến và tôn trọng đối với vẻ đẹp tự nhiên.

Tuy nhiên, điểm đặc biệt của bài thơ nằm ở việc Nguyễn Quang Thiều xây dựng hình ảnh động của con chim chìa vôi. Đây không chỉ là việc miêu tả một loài chim, mà đó còn là việc biến nó thành biểu tượng của sự tự do và vẻ đẹp trong tự nhiên. Sự hòa quyện giữa tiếng hót của chim và sự sống của thiên nhiên xung quanh tạo nên một đoạn thơ đầy cuốn hút và sống động.

Tác giả truyền đạt một bài học quý báu về cuộc sống thông qua sự kiên cường và dũng cảm của con chim chìa vôi. Con chim không từ bỏ trước khó khăn mà dũng cảm bay lên trước hiểm nguy. Điều này truyền đạt thông điệp về sự động viên và sự động lực trong cuộc sống hàng ngày.

Bài thơ sử dụng thể loại thơ bốn chữ, mỗi câu chứa bốn chữ. Thể loại thơ này thường dùng để thể hiện sự đơn giản, tinh tế và sâu lắng. Trong trường hợp này, nó giúp tạo ra một âm nhạc và nhịp điệu độc đáo trong bài thơ.

Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng mô tả tinh tế để hình dung rõ nét hình ảnh của con chim chìa vôi và vẻ đẹp của tự nhiên. So sánh tiếng hót của chim như "tiếng hát của thiên thần" là một ví dụ điển hình về cách tác giả tạo nên hình ảnh sống động.

Ngôn ngữ trong bài thơ rất giản đơn và dễ hiểu, phù hợp với mọi độc giả, đặc biệt là trẻ em. Điều này làm cho bài thơ trở nên truyền cảm và cuốn hút. Tác giả cũng sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh để tạo ra hình ảnh mạnh mẽ và đáng nhớ.

Có thể thấy, bài thơ "Bầy chim chìa vôi" của Nguyễn Quang Thiều không chỉ mang giá trị nội dung về tình yêu đối với thiên nhiên và cuộc sống, mà còn thể hiện sự tinh tế trong ngôn ngữ và nghệ thuật để làm cho câu chuyện trở nên thú vị và đầy ý nghĩa.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 10

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra nhiều tác phẩm tuyệt vời dành cho trẻ em, trong đó "Bầy chim chìa vôi" nổi bật với những thông điệp ý nghĩa và sâu sắc.

Trong câu chuyện này, tác giả giới thiệu chúng ta với hai nhân vật chính là Mon và Mên, hai anh em thân thiết. Tình huống được xây dựng khá độc đáo: khoảng hai giờ sáng, Mon thức giấc và liền gọi anh trai Mên. Cuộc trò chuyện giữa họ bắt đầu bằng một loạt câu hỏi về thời tiết, thể hiện sự lo lắng và bồn chồn của Mon. Mên ban đầu có phản ứng gắt gỏng nhưng khi Mon tiết lộ sự lo lắng của mình về bầy chim chìa vôi non, Mên cũng thấu hiểu. Cả hai anh em không thể ngủ tiếp và tiếp tục trò chuyện.

Mon chia sẻ với Mên một câu chuyện cá nhân về việc thả một con cá bống bị bố bắt được. Mên không trách mắng mà thay vào đó, anh ấy bật cười mừng. Điều này thể hiện tính hồn nhiên và ngây thơ của hai nhân vật này.

Sau một thời gian thảo luận, Mon đề xuất ý tưởng cứu bầy chim chìa vôi. Hai anh em không sợ mưa gió hay nguy hiểm, và họ lấy đò của ông Hảo để bắt đầu hành trình. Điều này cho thấy Mon và Mên là những đứa trẻ dũng cảm và tràn đầy tình yêu thương cho động vật. Họ tiếp tục trò chuyện và cùng nhau thực hiện kế hoạch của mình.

Tuyệt vời hơn, tác giả đã mô tả một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Khi bình minh ló dạng đủ để chiếu sáng những giọt mưa trên mặt sông, dòng nước mạnh mẽ cuốn trôi bãi cát. Bầy chim chìa vôi nhỏ bé nổi lên từ dưới mặt nước, cánh đôi của họ đập vào không trung. Từ chiều hôm trước, nước đã nhanh chóng dâng lên, và chim bố, chim mẹ đưa bầy con tránh nước. Những con chim nhảy lên phần cao nhất của bãi cát, nhảy lò cò trên những đôi chân mảnh dẻ. Điều này làm nổi bật tính kiên nhẫn và sức mạnh của loài chim. Khi một con chim gặp khó khăn, nó không từ bỏ mà vẫn cố gắng bay lên và đám chim đàn đứng vững bên nhau. Cuối cùng, câu chuyện kết thúc với Mon và Mên đứng yên, không cử động, với nước mắt đọng trong đôi mắt họ. Đó là giọt nước mắt của xúc động và tình yêu thương.

Kết lại, câu chuyện "Bầy chim chìa vôi" của Nguyễn Quang Thiều mang trong mình những thông điệp sâu sắc. Chúng ta cần học cách sống hòa hợp, yêu thương, và quan tâm đến loài vật và thiên nhiên.

Bài văn phân tích tác phẩm Bầy chim chìa vôi - mẫu 11

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra nhiều tác phẩm xuất sắc dành cho thiếu nhi, và trong số đó, "Bầy chim chìa vôi" là một tác phẩm đặc biệt đáng chú ý. Truyện này mang đến rất nhiều bài học ý nghĩa và sâu sắc về tình yêu và lòng dũng cảm.

Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính, Mon và Mên, và được tác giả xây dựng một cách độc đáo và tinh tế. Một khoảng hai giờ sáng, Mon thức dậy và gọi anh trai của mình, Mên. Mon tỏ ra lo lắng và bồn chồn, liên tục đặt ra những câu hỏi như "Anh ơi, mưa có to không?" và "Nhưng anh ơi, sông có đang lên không?" Những câu hỏi này thể hiện rõ ràng sự quan tâm của Mon đối với tình hình thời tiết. Mên, ban đầu, đáp lại một cách khó chịu, nhưng khi Mon tiết lộ rằng anh ấy lo sợ cho bầy chim chìa vôi non bị chết đuối, Mên cũng bày tỏ sự lo lắng của mình. Hai anh em không thể tiếp tục ngủ, và họ tiếp tục trò chuyện. Mon chia sẻ câu chuyện về việc anh thả một con cá bống mà bố đã bắt được, và thay vì trách mắng, Mên chỉ cười vui. Qua đoạn này, chúng ta thấy được tính hồn nhiên và tinh thần trẻ thơ của hai nhân vật này.

Sau khi thảo luận một thời gian, Mon đề xuất rằng họ nên ra bờ sông cứu bầy chim chìa vôi. Hai anh em không sợ mưa gió, nguy hiểm và quyết định sử dụng chiếc đò của ông Hảo. Mon và Mên được mô tả như những cậu bé dũng cảm và đầy tình yêu thương động vật. Họ băng qua đoạn sông để cứu bầy chim.

Trong truyện, tác giả cũng tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp, với ánh bình minh chiếu sáng những hạt mưa trên mặt sông. Cảnh tượng này đặc biệt ấn tượng khi dòng nước mạnh đã nuốt chửng phần còn lại của bãi cát. Chim chìa vôi bé bỏng đã đòi thoát khỏi mặt nước và bay lên trời. Điều này cho thấy sự kỳ diệu của tự nhiên và lòng dũng cảm của bầy chim chìa vôi. Cuối cùng, Mon và Mên đứng yên, đầy xúc động và tình yêu thương, với giọt nước mắt là biểu hiện của những cảm xúc này.

Tóm lại, truyện "Bầy chim chìa vôi" của Nguyễn Quang Thiều chứa đựng thông điệp sâu sắc. Nó nhắc nhở chúng ta về tình yêu và lòng dũng cảm, và rằng chúng ta cần phải sống hòa hợp, gắn kết và yêu thương động vật và thiên nhiên.

Xem thêm các bài Soạn văn 8 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn 8 hay nhất, ngắn gọn của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 8 Tập 1 và Tập 2 Kết nối tri thức (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên