Viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng

Câu hỏi viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk dành cho học sinh lớp 12 đầy đủ Câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Viết một bài văn nghị luận phân tích văn bản ngữ liệu Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Kịch bản word có lời giải chi tiết:

Quảng cáo

Nội dung văn bản Vũ Như Tô

VŨ NHƯ TÔ (Trích)

[Giới thiệu: Vở kịch Vũ Như Tô lấy bối cảnh lịch sử Triều Lê đang trên đà suy tàn. Vũ Như Tô là người thợ tài hoa, ham thích kiến trúc. Ông có khát vọng muốn xây cho đất nước một toà lầu tráng lệ, trường tồn với thời gian. Tuy nhiên, khi được giao nhiệm vụ xây Cửu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô đã kiên quyết từ chối vì không muốn phục vụ hôn quân. Dù bị ép buộc, Vũ (Vũ Như Tô) vẫn thà chết chứ không chịu khuất phục nhưng người cung nữ có tên Đan Thiềm khuyên Vũ nhân đó mà xây đài, thoả mãn đam mê nghệ thuật của mình. Vũ nghe theo và dốc hết tâm huyết xây dựng Cửu Trùng Đài. Toà lầu này xây lên càng cao, càng tốn tiền của, xương máu của nhân dân. Vũ Như Tô bị nhân dân căm ghét. Lợi dụng mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản dấy binh, lôi kéo thợ làm phản giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài.

Phần văn bản dưới đây trích từ Hồi I, Lớp VII của vở kịch, kể về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô.]

Đan Thiềm: - Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kì ngộ.

Vũ Như Tô: - Tôi là một kẻ quê mùa, không biết những nhời mỉa mai bóng gió.

Đan Thiềm: - Đây là thực tình. Ông đừng nghi kị. Chính tôi đang muốn gặp ông để nói chuyện.

Vũ Như Tô: - Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu được chuyện tôi, các người nông nổi...

Đan Thiềm: - Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi?

Vũ Như Tô: - Người ăn chơi thì đều nông nổi.

Đan Thiềm: - Sao ông bảo tôi là người ăn chơi?

Vũ Như Tô: - Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt thâm kia, tôi đoán chắc là người trong tuý hương mộng cảnh.

Đan Thiềm: - Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét.

Vũ Như Tô: - Ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.

Đan Thiềm: - Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã ái ngại cho ông. Tài làm luỵ ông, cũng như nhan sắc phụ người.

Vũ Như Tô: - Thực mang tội với bà. Xin cho nghe chuyện.

Đan Thiềm: - Ông tạm ngồi xuống cái đôn kia cũng được. Ông có mỏi không? Rõ khổ. Tài bao nhiêu luỵ bấy nhiêu! Gông xích, trông ông tiều tuỵ quá, tôi lại càng thương số phận tôi. Tôi bị tuyển vào cung từ năm 17 tuổi. Hồi ấy, tôi đã có người dạm hỏi. Tôi bị giam trong cung ngày ngày bạn với cảnh già. Rồi từ đấy đến nay, ngót 20 năm tôi chỉ đóng vai thị nữ hầu hạ từ vua cho đến các phi tần, nhiều kẻ kém cả tài lẫn sắc.

Vũ Như Tô: - Tôi không ngờ lại được biết một đời cung oán nhãn tiền.

Đan Thiềm: - Thân tôi không đáng kể đã đành, nhưng còn ông?

Vũ Như Tô: - Cũng là thân không đáng kể.

Đan Thiềm: - Sao lại không đáng kể? Hữu tài tất hữu dụng.

Vũ Như Tô: - Cảnh ngộ chúng tôi có khác chi cảnh ngộ bà? Có phần khổ nhục hơn nữa. Chế độ thì nghiệt ngã vô lí: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử không ai dám vượt ngoài khuôn sáo nghìn xưa, nghề kiến trúc đọng lại như một vũng ao tù. Người có tài không được thi thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo. Mà nói ngay đến những bọn này nào họ có được yên thân. Họ phải lẩn lút, giấu giếm. Vô phúc mà triều đình biết, thế là gia đình tan nát. Họ bị đóng cũi giải kinh, để làm những công việc nhà vua, thân giam trong nội như một tên trọng phạm, mãi đến khi mắt mờ, tay chậm, họ mới được thải hồi nguyên quán. Triều đình còn không ban cho họ một chút bổng nhỏ để mưu sống buổi tàn niên. Cách đối đãi như thế, thì nhân tài  nhiều sao được, mà ai chịu luyện tập cho thành tài? Thậm chí người ta nói kẻ có tài đã không giúp cho gia đình, còn là một cái vạ nữa.

Đan Thiềm: - Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm...

Vũ Như Tô: - Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã vào học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết, thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi, sổ lồng. Vua Hồng Thuận” ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lợi chẳng có mà nhục thì nhiều.

Đan Thiềm: - Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.

Vũ Như Tô: - Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chặng chọn nghề này. Đời lẩn lút...

Đan Thiềm: - Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?

Vũ Như Tô: - Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.

Đan Thiềm: - Dịp đấy chứ? Cửu Trùng Đài...

Vũ Như Tô: - Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thể là đánh chết chứ không chịu làm gì.”

Đan Thiềm: - Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.

Vũ Như Tô: - Sao vậy?

Đan Thiềm: - Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem tru di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?

Vũ Như Tô: - Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc....

Đan Thiềm: - Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.

Vũ Như Tô: - Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin...

Đan Thiềm: - Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ tru di cửu tộc vẫn còn chờ chờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.

Vũ Như Tô: - Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?

Đan Thiềm: - Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.

Vũ Như Tô: - Xây Cửu Trùng Đài?

Đan Thiềm: - Phải.

Vũ Như Tô: - Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muốn năm làm bia miệng cho người đời được.

Đan Thiềm: - Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một toà đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền”. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông... Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kì lộng lẫy nhất trần gian.

Vũ Như Tô: - Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.

Đan Thiềm: - Tôi cũng may được gặp ông. Xin ông cố đi. Đức vua ngự tới.

(Trích Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng, NXB Sân khấu, 2006)

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích văn bản ngữ liệu “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng

Hướng dẫn trả lời:

Quảng cáo

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Huy Tưởng: nhà văn hiện thực xuất sắc, quan tâm đến lịch sử và thân phận con người.

- Giới thiệu vở kịch Vũ Như Tô: khắc họa bi kịch của người nghệ sĩ tài hoa trước hiện thực xã hội phong kiến.

- Dẫn vào đoạn trích: cuộc gặp gỡ giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm thể hiện rõ bi kịch cá nhân và tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.

* Thân bài:

1. Khái quát nội dung đoạn trích

- Bối cảnh: Triều Lê suy tàn, vua Lê Tương Dực hôn ám, nhân dân lầm than.

Quảng cáo

- Vũ Như Tô bị bắt về kinh, dự định xử tội, gặp Đan Thiềm – cung nữ tri âm, từ đó mở ra câu chuyện về khát vọng và bi kịch của người nghệ sĩ.

2. Phân tích nhân vật Vũ Như Tô

- Con người tài hoa: có khiếu về kiến trúc, khát khao xây dựng Cửu Trùng Đài – công trình nghệ thuật vĩ đại cho dân tộc.

- Bi kịch cá nhân:

+ Bị xã hội phong kiến khắt khe, bạc đãi, giam hãm tài năng.

+ Mang nặng nỗi đau mất mát gia đình, bị đánh đập, tù đày.

- Tâm trạng phức tạp trong đoạn trích: từ uất ức, chán chường → được Đan Thiềm khích lệ → bừng tỉnh khát vọng sáng tạo.

→ Qua đó, tác giả ca ngợi tài năng, khát vọng cống hiến nhưng cũng đặt vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.

3. Phân tích nhân vật Đan Thiềm

- Hoàn cảnh bi thương: cung nữ bị giam hãm cả đời trong cung cấm, tuổi xuân phai tàn.

- Tấm lòng nhân hậu, tri âm:

+ Hiểu và thương xót nỗi đau của Vũ Như Tô.

Quảng cáo

+ Khích lệ ông đem tài năng cống hiến cho dân tộc.

- Vai trò: người thắp lửa cho khát vọng sáng tạo, nhưng cũng gián tiếp đưa Vũ Như Tô vào bi kịch cuối cùng.

4. Mối quan hệ giữa Vũ Như Tô – Đan Thiềm

- Đồng cảm về số phận: cùng là những con người tài sắc nhưng bị chèn ép.

- Đan Thiềm là tri âm, người hiểu và khích lệ Vũ Như Tô vượt lên hiện thực đen tối để mưu cầu cái đẹp, cái vĩnh hằng.

- Mối quan hệ này làm nổi bật xung đột trung tâm: khát vọng nghệ thuật cao cả nhưng xa rời đời sống, nhân dân → dẫn đến bi kịch.

5. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn trích

- Tư tưởng nhân văn: trân trọng tài năng, khát vọng sáng tạo, khẳng định vai trò của tri âm.

- Nghệ thuật:

+ Hình thức kịch: đối thoại tự nhiên, giàu kịch tính.

+ Xây dựng nhân vật có nội tâm phức tạp, đa chiều.

+ Ngôn ngữ giàu chất thơ, chất triết lí.

* Kết bài:

- Khẳng định ý nghĩa đoạn trích: khắc họa bi kịch của nghệ sĩ tài hoa trước hiện thực nghiệt ngã; ngợi ca tài năng và khát vọng sáng tạo.

- Liên hệ: Tác phẩm đặt ra vấn đề muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, gợi suy ngẫm cho người đọc hôm nay.

Bài văn tham khảo

Nguyễn Huy Tưởng là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam hiện đại. Ông quan tâm sâu sắc đến lịch sử dân tộc và thân phận con người trong những bước ngoặt bi kịch của thời đại. Vở kịch Vũ Như Tô là một sáng tác xuất sắc của ông, tái hiện bi kịch của người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội phong kiến suy tàn. Đoạn trích ở hồi I, lớp VII với cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm đã làm nổi bật bi kịch cá nhân, khát vọng nghệ thuật và mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời.

Bối cảnh câu chuyện diễn ra khi triều Lê đang trên đà suy tàn, vua Lê Tương Dực hôn ám, nhân dân lầm than, tài năng bị chèn ép. Vũ Như Tô – người thợ tài hoa – bị bắt về kinh, chuẩn bị chịu cực hình. Tại đây, ông gặp Đan Thiềm, một cung nữ mang trái tim nhân hậu. Cuộc đối thoại giữa họ mở ra bức tranh hiện thực về số phận bi kịch của những con người tài sắc trong xã hội ấy, đồng thời đặt ra vấn đề sâu sắc về khát vọng sáng tạo và giá trị của nghệ thuật.

Trước hết, nhân vật Vũ Như Tô hiện lên là người nghệ sĩ có tài, có tâm. Ông bẩm sinh có khiếu về kiến trúc, khát vọng xây dựng Cửu Trùng Đài – một công trình nghệ thuật vĩ đại để đất nước sánh với các cường quốc. Tuy nhiên, cuộc đời Vũ Như Tô là chuỗi dài đau khổ: bị triều đình khinh rẻ, bắt bớ, giam cầm; mất mát gia đình, chịu roi vọt và sự nhục nhã. Trong đoạn trích, Vũ Như Tô hiện ra với tâm trạng phức tạp: vừa uất ức, chán chường vì bất công, vừa được Đan Thiềm khơi dậy niềm tin vào khát vọng sáng tạo lớn lao. Qua đó, tác giả ca ngợi tài năng, khát vọng cống hiến của con người nhưng cũng dự báo bi kịch khi nghệ thuật xa rời đời sống.

Nhân vật Đan Thiềm là một cung nữ sống cả đời trong cung cấm, tuổi xuân phai tàn nhưng vẫn giữ tấm lòng nhân hậu. Bà thấu hiểu và thương xót nỗi đau của Vũ Như Tô, đồng thời khích lệ ông đem tài năng cống hiến cho dân tộc. Đan Thiềm trở thành tri âm, người thắp lửa cho khát vọng sáng tạo trong Vũ Như Tô, nhưng vô tình cũng đưa ông đến bi kịch khi Cửu Trùng Đài trở thành biểu tượng xa rời nhân dân.

Mối quan hệ giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm vì thế vừa là tình tri âm sâu sắc, vừa làm nổi bật xung đột trung tâm của vở kịch: nghệ thuật vĩ đại nhưng xa lạ với đời sống nhân dân sẽ dẫn đến bi kịch. Đoạn trích cũng thể hiện tài năng của Nguyễn Huy Tưởng trong việc xây dựng đối thoại kịch tính, khắc họa nội tâm nhân vật sâu sắc, ngôn ngữ giàu chất thơ và triết lí.

Tóm lại, đoạn trích Vũ Như Tô không chỉ ca ngợi tài năng và khát vọng sáng tạo mà còn đặt ra vấn đề muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Tác phẩm để lại cho người đọc hôm nay bài học về sự gắn kết giữa đam mê cá nhân với hạnh phúc của nhân dân, của đất nước.

Xem thêm các Câu hỏi đọc hiểu và Viết trong văn bản Vũ Như Tô chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Kịch chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học