5+ Phân tích đoạn 3 Đất nước (điểm cao)
Tổng hợp các bài văn Phân tích đoạn 3 Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích đoạn 3 Đất nước
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 2)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 3)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 4)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 5)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 6)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 7)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 8)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (mẫu 9)
- Phân tích đoạn 3 Đất nước (các mẫu khác)
5+ Phân tích đoạn 3 Đất nước (điểm cao)
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 1
Từ xưa đến nay, viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học. Tiếp nối mạch nguồn văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm, một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những cái nhìn rất mới về ước mơ đất nước. Quan điểm ấy được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích “Đất Nước” trong sử thi Mặt đường đầy khát vọng.
Đất nước là một khái niệm khác nhau đối với mỗi người. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng tình cảm của mình, bằng sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng tầng ý niệm về đất nước dần được ông mở ra. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà từ những điều rất cụ thể trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua quan niệm của tác giả, hình ảnh đất nước hiện lên thật bình dị, đất nước đến từ truyện cổ tích, từ trầu cau, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre đánh giặc Ân. Tổ quốc ta có từ ngày ấy, đã thấm nhuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ thuở ấu thơ.
Không chỉ vật, mà nước còn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc ta. Hình ảnh “tóc mẹ vén sau đầu” thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa được lưu giữ từ ngàn đời nay của ông cha ta. Nghìn năm Bắc thuộc, nếu phương Bắc tìm cách Hán hóa bằng mọi cách thì cũng không cách nào xóa bỏ được vốn văn hiến cao đẹp của dân tộc ta. Đất nước còn được hình thành từ lối sống thủy chung, tình cảm, bắt nguồn từ tình nghĩa vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng bậc thầy ca dao: “Tay nâng đĩa muối gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất nước được hình thành từ những gì có vẻ là. giản dị nhưng rất thiêng liêng và cao cả.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không còn là xa lạ mà là không gian sống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm không khoa trương, không ngần ngại nói rõ đó là nơi đi học, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi thương nhớ. Vâng, đó là đất nước được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để khắc sâu quan niệm ấy, ông đã truy ngược nguồn gốc, ngược về quá khứ: “Đất nước là nơi nhân dân sum họp/Đất là nơi chim về/Nước là rồng ở/Lạc Long Quân, Âu Cơ/Đẻ con đồng bào trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc trên hai bình diện lịch sử và địa lý, ông dần dần đi đến hoàn chỉnh khái niệm Đất nước. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống của đất nước: “Người đã khuất/ Kẻ còn bây giờ/ Thương nhau mà thôi con/ Chịu phần người đi trước để lại// Xin dạy con cháu mai sau nên làm gì/ Ăn ở đâu hàng năm/ Con cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh” đã khẳng định thế hệ mai sau có trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời Người cũng nhắc nhở, dù có dựng nước cũng không được quên công lao của những người có công dựng nước, dựng nước. Chỉ với hai hai chữ “lạy” cũng thể hiện được tấm lòng thánh thiện, thiêng liêng hướng về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên sinh ra và lớn lên.
“Trong anh em hôm nay/…/Đất nước vẹn toàn và to lớn”, câu thơ đã khẳng định, đất nước tồn tại và bền vững là nhờ có sự đoàn kết của mọi người, của tình yêu đôi lứa. . Chỉ khi nào có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì mới có một đất nước vĩ đại và toàn vẹn. Và từ đó, Người cũng nêu cao trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể thế hệ trẻ đối với đất nước như: “Các em ơi, đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và sẻ chia/ Phải biết chuyển mình cho hình dáng đất nước/ Làm cho đất nước trường tồn” vì:
Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi địa danh ấy cũng gắn liền với một chiến công, với sự hy sinh thầm lặng để đất nước mãi mãi tươi sáng. Chính vì thế đã khiến Người rút ra kết luận: “Còn đâu đâu ruộng nương/…/Đời ta đã hóa núi sông”.
Làm nên đất nước, không thể chỉ một cá nhân làm nên văn hóa, truyền thống, lịch sử của dân tộc. Vậy là ai, tất cả là ai?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Quả thật, đó là những con người vô danh, họ là những cô gái, những chàng trai, họ “sống chết” “giản dị và bình lặng” họ đặt tên xã là làng, mang về những phong tục tập quán được truyền lại, gìn giữ cho muôn đời sau. . Chính họ cũng đã làm nên đất nước. Với thủ pháp liệt kê và nói “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mắt người đọc một lớp người vô danh được nối tiếp nhau truyền từ đời này sang đời khác cho con cháu những giá trị vật chất, vật chất. tinh thần cao thượng. Và mục tiêu của họ là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Về điểm này, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng định mạnh mẽ quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và nhân dân. “Trở về cội nguồn đất nước là trở về cội nguồn văn hóa dân gian giàu đẹp” khởi đầu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết thúc bằng những khúc tráng ca tự hào, trải dài dường như vang vọng khắp sông núi. Đồng thời tiếng hát ấy cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với truyền thống văn hiến ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu chất suy tưởng, triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc đã được mở mang kiến thức và có cái nhìn chân thực hơn về Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó em càng thêm yêu và tự hào về nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
Dàn ý Phân tích đoạn 3 Đất nước
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm và vị trí đoạn trích.
Thân bài:
Đất nước ra đời từ xa xưa, gắn liền với những truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa.
– Sản xuất những truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc từ truyện cổ tích, dựa trên truyền thuyết.
– Sự tích Trầu Cau, nhắc lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là tình anh em sâu nặng, vợ chồng thủy chung, nhắc lại những phong tục đẹp của dân tộc ta. Đó là tục ăn trầu nhuộm răng.
– Truyền thuyết về Thánh Gióng cũng rất quen thuộc, gợi lại truyền thống yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
– Đất nước có từ lâu đời bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông.
– “Tóc mẹ búi ra sau đầu” gợi cho người đọc ký ức về phong tục các bà, các mẹ ngày xưa búi tóc thấp, búi tròn sau gáy.
– “Cha mẹ thương nhau bằng muối gừng cay”, là đại biểu cho truyền thống tôn trọng tình nghĩa vợ chồng.
– Đất nước đã có từ rất lâu đời và được hình thành cùng với quá trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, biết làm nhà, trồng lúa, cấy cây…
– Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hẹn hò “nơi em đi học”, “nơi em tắm”,… là một không gian thực sự gần gũi, thân thiết. Nhưng đất nước cũng đã khoác lên mình một dáng vẻ cao cả, hùng vĩ như những “núi bạc”, “biển cả” nơi con người tìm về sau những ngày xa quê hương.
– Về thời gian lịch sử:
Quá khứ ấy còn là một đất nước vĩ đại và linh thiêng, sau đó tác giả nhắc nhở ta về nòi giống cao quý của dân tộc ta là con rồng cháu tiên. Đồng thời cũng nhắc nhớ về những truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Trong hiện tại, nơi đất nước hiện ra một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện trong mỗi con người, đã bao ngôn ngữ để con người giao tiếp và tư duy, bao phong tục tập quán tốt đẹp sẽ còn tồn tại trong mỗi nếp sống.
Trong tương lai đó là một Đất nước với biết bao viễn cảnh tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai trọng trách lớn lên cả về trí tuệ và tầm vóc, làm nên những điều kỳ diệu. cho cả dân tộc.
Tư tưởng Quốc gia của nhân dân ta:
– Về không gian và địa lý:
– Cảm nhận đất nước đã đi qua những danh lam thắng cảnh Việt Nam được nhắc đến dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả về quê hương, đất nước.
– Nhắc nhở về những truyền thống thực sự tốt đẹp của dân tộc.
– Nhấn mạnh đất nước ta là một dải núi sông liền nhau, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam một nhà của nhân dân ta.
Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình nghĩa vợ chồng, cũng như ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, gợi lại thời dựng nước thiêng liêng. hào hùng và cuối cùng là nhắc lại truyền thống hiếu học của dân tộc ta, nhất là những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên cảnh sắc cho quê hương.
=> Khẳng định mạnh mẽ tư tưởng đất nước của nhân dân vì nước là do nhân dân góp công, của Nguyễn Khoa Điềm rất nhiều.
Vài nét về thời đại và lịch sử nước ta:
– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi những con người đã luôn đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc “không ai nhớ tên” nhưng họ cũng là những người đã có công dựng nước.
– Nhân dân không chỉ là người dựng nước và giữ nước, mà nhân dân còn là người thực hiện nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng đó là lưu truyền cho thế hệ mai sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc. .
Về mặt văn hóa:
– Tác giả cũng đã lựa chọn ba câu ca dao tiêu biểu để gợi lên ba nét đẹp tinh thần của người Việt, cũng là ba nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của người Việt Nam nói chung.
– “Yêu em từ thuở nằm nôi/ Em nằm em khóc, em ngồi em ru”, đó là vẻ đẹp nồng nàn nhất trong tình yêu, biết yêu thương những người xung quanh mình.
– “Đi bồng vàng lội sông/Vàng rơi không tiếc tay cầm vàng”, từ đó ta thấy được vẻ đẹp của sự coi trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.
– “Thù này ắt để lâu/Trồng tre cắm gậy phải khập khiễng” gợi vẻ đẹp bền bỉ trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
Kết bài: Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 2
Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt, tình yêu đất nước vẫn tỏa sáng và cháy bỏng trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong hoàn cảnh đó.
Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, người yêu văn chương nào cũng không thể quên phong cách thơ của ông là thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn người đọc bởi những cảm xúc lắng đọng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia các cuộc đấu tranh của nhân dân. Một trong những kiệt tác đó của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” trong chương V của “Bài ca dài với mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và được in. lần đầu tiên vào năm 1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân”, được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn, nhưng trên cả ba bình diện: bề rộng của không gian địa lý, bề dài của lịch sử, bề sâu của lịch sử. văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi: “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ muôn đời?” Để trả lời những câu hỏi đó đã khiến Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc tìm về cội nguồn Tổ quốc.
Khi nói đến những nét đẹp của đất nước trên bình diện nhiều chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu rằng văn hóa là những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần, có thể đó là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa nhìn nhận, người Việt Nam không chỉ cử nhau đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, với những nét đẹp thấm đượm bản chất của người Việt Nam. được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người giàu đến lồng ngực của người trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam chúng ta. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước đã – khởi đầu – lớn lên” đã hình dung quá trình phát triển của đất nước trong giai đoạn lịch sử đó, đất nước như một sinh thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chính chi phối toàn bài thơ, góp phần khắc họa cảnh quê thật bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, ở đó đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tình làng nghĩa xóm. Đất nước cũng là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi con người sinh ra đời.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng được cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta được những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, và chở che nhau.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”Đó là tục nhuộm răng và ăn trầu của người già. Đồng thời cũng có câu tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện” sự tích trầu cau là nét đẹp của người già Việt Nam. Đất nước là nền văn hóa kết tinh từ tâm hồn người Việt. Từ truyện dân gian, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thủy chung, thủy chung của tâm hồn dân tộc ta. Tiếp đó, nhà thơ đóng vai trò là người dẫn đường đưa chúng tôi về với làng Phù Đổng để nghe truyền thuyết về Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh thắng giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh trồng tre đánh giặc đó của nhân dân ta được lặp lại không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp lại ba lần, là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc bảo vệ đất nước. người Việt Nam chúng ta. Có thể thấy, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại bao đời nay, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, tinh thần đánh giặc cứu nước, biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân. Con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ trầm bổng, trang nghiêm gợi suy nghĩ về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, nơi lý giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, quen thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong cuộc đời mỗi con người. Câu ca dao: “Tóc mẹ vén sau đầu” nhắc đến mỗi chúng ta đã từng nghe về phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Đất nước đã lớn lên từ mồ hôi nắng mưa. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Nó là chất liệu của ca dao, tục ngữ và nó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, là nơi chung thủy, chung thủy của nếp sống lứa đôi Việt Nam.
Câu ca “Kèo, cột thành danh” ám chỉ tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn và để tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ.
Và nhân dân là những người thực sự đã truyền lại những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần, tác giả nhận ra: “Đất nước có từ ngày ấy…”, không biết ngày ấy sẽ có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó có từ rất, rất lâu rồi. Chỉ biết rằng, đất nước cũng đã tồn tại từ thuở có truyền thuyết, huyền thoại, từ thuở lập quốc, đến khi dân tộc Việt Nam không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng. sử dụng bảng. lao động xây dựng đất nước.
“Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời gian trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất nước đã có từ khi mẹ tôi hay kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng lúa khoai, biết ăn trầu, biết sống nghĩa tình thủy chung.
Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội, là một trong những nhà thơ xẻ dọc những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là tất cả những yếu tố tất nhiên sẽ có trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của quốc gia. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu
….
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Cảm nhận đầu tiên của ta khi đọc tám câu thơ là ta được đắm chìm trong không gian cổ tích thần tiên. Cả bài thơ là một kho truyện cổ, với những truyền thuyết như “núi Vọng Phu”, hay “hòn Trống Mái” đấy.
Một lần nữa tác giả trong vai người hướng dẫn viên đưa chúng ta trở lại làng Phù Đổng để nghe câu chuyện Thánh Gióng nhổ tre bụi ngà đánh tan quân Ân xâm lược. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi dòng thơ có độ dài khác nhau nhưng có cấu trúc giống nhau. Mỗi dòng thơ được chia thành hai phần và được nối với nhau bằng điệp ngữ “góp”.
Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu viết về con người, thơ mộc mạc, giản dị, tình cảm, có chút e ấp, đáng thương. Ngược lại, nửa sau chữ “góp” nói về đất nước, lời thơ đa sắc màu. Nghệ thuật tương phản này cũng là bài ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại của đời người. Những người có công với đất nước là những cặp vợ chồng thủy chung, những anh hùng, những người lính quyết tử vì nước quyết sống, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trang, bà Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Đen. Diễm… và hơn nữa, nhân dân cũng là những cái tên nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân, có những nhân vật chỉ nhắc đến ta. mới thấy được sự uy nghiêm linh thiêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” là lời chúc quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im cho non xanh sông thẳm”. Con người chúng ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một điều chung và thống nhất: đóng góp trái tim của mình để xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Nhà thơ còn sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, đồng thời gợi lên sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, đoàn kết của trăm họ trong một điều: cùng nhau góp sức dựng nên một không gian vẻ vang cho nhân gian, mọi người những người sau đây đã góp sức, đoàn kết, cống hiến xương máu, tính mạng, tên tuổi, tài năng của mình. Nhờ vậy mà thế hệ chúng tôi cũng có một đất nước hữu hình và một đất nước anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những nơi không tên. Có người từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên địa danh là vô cùng quan trọng, không thể tùy tiện. Có rất nhiều địa danh đã được phản ánh trong các áng thơ ca dân tộc ca ngợi cảnh sông núi hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm cũng không đi theo hướng đó, ông miêu tả sự sinh sôi nảy nở của những nơi ấy bởi ở đó có lòng trung thành, gắn bó, có máu xương, có tài, có danh, có khí. tâm hồn của người dân. Đây là kết quả của sự hy sinh bền bỉ cao cả của một dân tộc. Có thể nói tám câu thơ giúp người đọc thấy được sự kì diệu của thế hệ đi trước. Nó như đóa hoa vàng tỏa sáng mà Tổ quốc gọi công ơn nhân dân – những con người đã hy sinh để làm nên kỳ công là dân tộc ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng với lung linh sắc màu và hình ảnh thơ thì bốn câu thơ sau là những cảm xúc suy tư của ngôn luận chính trị xen lẫn suy tư của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ sau:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch, chữ thảo và diễn đạt theo lối phủ định thành khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức nghị luận nhằm khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba là: “Ôi đất nước bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được lòng mình, bày tỏ sự nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của các vĩ nhân.
Tác giả cũng nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con đều là anh hùng. Đồng chí, đồng đội chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Đời đã biến núi sông ta…” bởi có sự biến đổi. Những câu trước mỗi dòng có từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ có tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó cũng được coi là kết thúc bằng hai âm bằng nhau như một giọng trầm để phản xạ lại âm thanh. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao động của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ ngắn gọn biết bao.
Đời người tuy ngắn ngủi hữu hạn, nhưng hóa thành sông núi của ta, gửi gắm uy nghiêm vô biên, trường tồn bất biến. Đây là những biến đổi phi thường khẳng định cá tính của chúng ta và thật đáng kinh ngạc! Họ không chỉ hóa thân và làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên tâm hồn đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, tác giả Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, một đại thần dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự nối tiếp của các triều đại và các vị vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia của chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang cũng đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Nếu như nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch lại sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm được nói ở đây là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu nói quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của những người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, và nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của vài những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời của họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau những ngọn lửa bùng cháy khát vọng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ mảnh đất cổ xưa từ thời vua Hùng và thời các vị thánh nhân đi trước. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho những thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc là: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, và tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi một người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ là “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên những lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên vì tì súng trên xác trực thăng
Và Anh đã chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vòng.
Chợt thấy anh và giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhung lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không có một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên anh đã thành tên đất nước
Ôi Anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát của mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, không một bức ảnh trước khi lên đường, nhưng những con người ấy vẫn tình nguyện ra đi để bảo vệ đất, nước, sẵn sàng ngã xuống để “Tổ quốc bay lên trong những mùa xuân”.
Hay như nhà triết học người Đức – Engels đã từng nói: “Không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Tư tưởng sâu xa dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước Đây Cũng Là Đất Nước Của Nhân Dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất nước nhân dân, tác giả đã trở về với cội nguồn văn hóa, văn hóa dân gian giàu đẹp mà thể hiện qua ca dao, vẻ đẹp tinh thần của con người, hơn hết, ở đâu cũng có thể tìm thấy trong ca dao, ca dao, cổ tích: Đất nước của Nhân dân, Đất nước của dân gian mang tính thần thoại. Câu thơ có hai vế song hành cũng là một cách định nghĩa đất nước giản dị nhưng cũng rất độc đáo. Văn hóa Việt Nam là văn hóa của nhân dân, do nhân dân sáng tạo ra. Trong nền văn hóa ấy, có những câu ca dao thần thoại luôn chứa đựng lịch sử, xã hội, văn hóa của đất nước, đặc biệt là đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhà thơ còn vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ vận dụng những ý nghĩa, hình ảnh của ca dao, còn gợi nhớ ca dao mà trở thành câu thơ, có một ý thơ gắn trong mạch chung của cả bài để khẳng định rằng: Người Việt Nam trọng nghĩa tình.
Thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này là sự vận dụng các yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, văn hóa dân gian được sử dụng tối đa để tạo nên không khí, âm điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa mộc mạc, gần gũi, vừa bay bổng, mơ màng của dân ca, huyền thoại nhưng mới lạ qua những cách cảm nhận và thể hiện bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả, tạo nên những nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, ta phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi. , và hơi thở của cuộc sống. Chính luận đã làm sáng lên chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp đập con tim” khiến ta thêm yêu và tự hào hơn 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hóa, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ được nhân dân bảo vệ và gìn giữ mãi mãi. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình những nét đẹp duyên dáng của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Và sự thống nhất trong toàn bài thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen như cùng với sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp đi lặp lại như một câu chủ đề trong những bản anh hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, kể lể, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. nhiều nền văn học Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần lâu dài của những người yêu văn học về đề tài tình yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến tận ngày nay.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 3
Đất nước được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm tình yêu và dòng máu của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lập luận sắc bén nhưng cũng rất trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất nước do ai làm ra?
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”Về quá khứ, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một cái nhìn rất mới, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang sơ của dân tộc, là những vùng đất, là đề tài mà bao người cày cuốc, bao bước chân khao khát khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp bao la, tươi trẻ của gấm vóc, mà không thấy được tâm hồn sâu lắng đằng sau mỗi mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, khi đến với Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ không nhìn danh lam thắng cảnh trong tâm hồn bên ngoài mà nhìn sâu vào trong xương tủy tâm hồn để thấy được những truyền thuyết, những trầm tích văn hóa, lịch sử được khắc ghi trong đó: đó là những truyền thuyết thiêng liên, thấm đẫm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục tập quán, văn hóa hay với những câu chuyện về con người, lịch sử được lưu giữ từ ngàn đời nay.
Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ai là người làm nên đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện một cái nhìn mới mà còn thể hiện một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông không phải là tạo vật của thiên nhiên mà là hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống cha truyền con nối. Truyền thuyết về hòn Vọng Phu không chỉ gợi lên cảnh chia ly, sự đợi chờ lâu dài trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình yêu thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt thi nhân đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự màu mỡ, cho tình yêu vĩnh cửu của đôi lứa. Những ngọn đồi thấp bao quanh núi Hy Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của người dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi quy tụ, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về đất nước. thống nhất. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh của một đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh một đất nước lưng đeo gươm, tay mềm cầm bút hoa.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu thiên nhiên tạo ra núi hình sông thì chính con người, con người, tạo nên linh hồn cho mỗi núi sông. Xuất phát từ quan niệm nhập thể của Bụt, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã nhập thể vào đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết dân gian, nhưng nổi lên trên thế giới ấy nhờ cái nhìn mới độc đáo của lối tư duy hiện đại. Sông núi không còn là khung cảnh thiên nhiên thuần khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử không đơn thuần là thiêng liêng, mà tất cả dưới con mắt Nguyễn Khoa Điềm đều được nhìn nhận như một phần của tâm hồn. máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về công lao đóng góp, hóa thân của nhân dân để dựng nước:
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi thời gian lịch sử, vừa không gian mênh mông. Dường như từ đó nhà thơ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời gian, kiên định trung thành với không gian chính là lẽ sống của nhân dân.
Đoạn thơ là một cảm xúc thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân đã góp phần làm nên văn hóa, lịch sử, tâm hồn của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 4
Tác phẩm “Đất nước” là bài thơ in trong tập hùng ca “Mặt đường khát vọng” thuộc chương V. Được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi nổi của quân và dân ta. Bài thơ là lời nhắn nhủ, thức tỉnh sâu sắc đối với thế hệ trẻ miền Nam nói với họ và thế hệ trẻ về nhiệm vụ của chính mình đối với đất nước. Phân tích Đất nước ở đoạn 3 để hiểu thêm và có cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
……
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Trong khi ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ nói về tình cảm quân dân, tình đoàn kết của mọi người, truyền thống trong gia đình. Qua đó, chúng ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai đã làm ra đất nước, đất nước là gì. Ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất nước.
Hình ảnh đất nước hiện lên vừa thân quen vừa vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do đất nước kết tinh và hội tụ lại. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần đất nước. Từ đó, người đọc sẽ hiểu hơn về tình cảm gắn bó của mỗi người với đất nước bao la, rộng lớn. Sự gắn kết ấy được thể hiện trong từng nếp sống, sinh hoạt, cử chỉ vừa thân thuộc vừa chan chứa yêu thương:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.
Ý tưởng về được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến ngay trong những dòng đầu của bài thơ Đất nước là nơi ta gặp nhau trong bài này và được tiếp tục qua đoạn thứ ba. Phân tích Đất Nước ở đoạn 3 để thấy yêu Đất. Lòng trung thành là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu được hình thành và phát triển từ lòng yêu nước. Một tình yêu hài hòa và tuyệt vời. Để từ đó, mỗi người có trách nhiệm xây dựng quê hương của mình để góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh. Mỗi chúng ta đều có trách nhiệm gắn bó và kết nối cộng đồng. Suy cho cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước trọn niềm bình yên” trong mỗi con người, liên kết với nhau để trở thành “Đất nước đại nghĩa”.
Hình ảnh “Khi hai ta nắm tay nhau” cũng nhằm nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, cội nguồn tổ tiên của mình. Tất cả chúng ta đều có chung một cội nguồn – Con Rồng cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ về cội nguồn và truyền lại tình yêu, niềm hi vọng cho thế hệ mai sau:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Qua việc phân tích đất nước đoạn 3 có thể thay thế hệ trẻ là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Thế hệ tương lai được kỳ vọng sẽ gánh vác trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của những người trẻ tuổi, nhất định đất nước sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng là trách nhiệm chung của bất kỳ người Việt Nam nào trong công cuộc dựng nước, giữ nước.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 5
Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất Nước do ai làm nên?
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó: đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng ngàn thế hệ.
Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.
Như vậy, khi khái quát lại ta có thể nhận ra, nếu thiên nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo linh hồn cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào đất nước.
Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng, mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân.
Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 6
Bài thơ Đất nước được hình thành trong cả một quãng thời gian dài (1948-1955). Lần đầu tiên được đưa vào tập Chiến sĩ (1956). Bài thơ được tổ hợp từ một số bài thơ khác như Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Đây là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi nói riêng của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ mang rõ phong cách Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bao trùm của Đất nước là lòng yêu nước nồng nàn, thiết, tha, ý thức độc lập tự chủ, là lòng tự hào về đất nước và nhân dân anh hùng, từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng. Trong đó có những đoạn thơ đó là Tổ quốc hồi sinh tràn đầy, sức sống, ý thức độc lập tự chủ và niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp, có truyền thống bất khuất kiên cường:
Mùa thu nay khác rồi!
....
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Sau khi hồi tưởng đến mùa thu của những ngày rời Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn với cảm xúc “Buồn buồn lặng lặng” (Hoài Thanh), tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình về mùa thu mới, mùa thu trên đất nước nhân dân đã làm chủ vận mệnh của mình, mùa thu kháng chiến ở núi rừng Việt Bắc: “Mùa thu nay khác rồi”. Lời thơ đầy tính chất khẳng định. Đó là sự khác rồi về không gian, thời gian và tâm trạng con người trước mùa thu. Nhưng cái khác trước hết của mùa thu này được người đọc nhận ra ngay ở nhịp điệu, tiết tấu, hình ảnh thơ: từ những câu thơ thất ngôn sâu lắng, cổ kính mang đậm màu sắc Đường thi, bài thơ bỗng chuyển sang những câu thơ tự do, tạo nên một nhịp điệu hối hả phơi phới làm cho đoạn thơ như hát vang lên từ một trái tim chất chứa niềm vui.
Đứng giữa không gian bao la, giữa đất trời bát ngát thoáng đãng, với trái tim reo vui, tác giả đã lắng nghe, cảm nhận sắc thu, hồn thu mới “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”. “Vui nghe” chứ không phải là nghe vui. Nghe vui là niềm vui từ bên ngoài còn vui nghe là niềm vui từ trái tim trỗi dậy, dâng lên, lan tỏa, nhuốm lên tất cả cảnh vật, đất trời, cỏ cây mây nước “Gió thổi rừng tre phấp phới”. “Phấp phới” là một từ láy rất gợi hình, gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Phấp phới rừng tre gió thổi hay phấp phới của lá cờ đỏ tung bay giữa chiến khu tự do hay còn gợi cho ta niềm vui phơi phới của con người đang bay lên cùng với đất trời giải phóng?
Trong niềm vui lâng lâng ấy, nhà thơ đã cảm nghe được sự chuyển đổi rất mực tinh tế của hồn thu:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Nhờ sử dụng biện pháp nhân hoá đặc sắc, nhà thơ không chỉ diễn tả được sự thay đổi của sắc thu mà còn diễn tả được sự thay đổi của lòng người, hồn người. Qua câu thơ của Nguyễn Đình Thi, dường như mùa thu đất nước đã được hồi sinh và hiện lên như một cô gái đầy sức trẻ, trẻ cả hình sắc, trẻ cả tâm hồn. “Trong biếc nói cười thiết tha”. Câu thơ có 6 chữ mà dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc và ấn tượng: âm thanh thì “nói cười” tươi trẻ, màu sắc thì “trong biếc”, tình cảm thì “thiết tha”. Nhớ lại cảnh mùa thu cũ hiện về như thiếu nữ “đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” với “áo mơ phai dệt lá vàng” còn thu nay đã được thay bằng chiếc áo màu tươi sáng, bình dị, ta càng thấm thía thu từ đây “không thu thảm thu sầu” mà là “thu sướng nhuộm màu xuân mát mát”:
Mùa thu vàng sáng tới rồi đây
Áo mới em phơi gió thổi đầy
Áo trắng đôi tà phơ phất hoá
Áo vàng em mặc cánh thu bay
(Xuân Diệu)
Đoạn thơ trên được tác giả sử dụng nhiều động từ “đứng, nghe, gió thổi, thay áo, nói, cười” đã gợi được không khí nhộn nhịp sôi nổi rộn ràng của mùa thu, Cảnh sắc thiên nhiên ở đây vừa bình dị khỏe khoắn, vừa trong trẻo tươi sáng hòa hợp với tâm trạng vui hồ hởi của thi nhân tạo nên một vẻ đẹp mới cho mùa thu đất nước. Nguyễn Đình Thi đã đưa đến một nét mới cho những bài thơ về mùa thu Việt Nam muôn đời.
Đứng trước khung cảnh mùa thu đất nước như đang hồi sinh, trào dâng sức sống, niềm vui, với tình yêu thương nồng thắm, tác giả đã bộc lộ ý thức độc lập, tự chủ và niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp. Thông qua tình cảm nồng thắm yêu thương và chói đỏ tự hào của tác giả, bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra với không gian ba chiều bát ngát và hiện lên với những đường nét, màu sắc, hình khối và cả hương vị nữa, thật nên thơ, nên hoạ. Ngẩng đầu lên là bầu trời “thu xanh ngắt mấy từng cao”. Dường như không nén nổi cảm xúc, tác giả phải reo lên “Trời xanh đây là của chúng ta”. Trời ta xanh mắt ai mà chẳng thấy, vốn rất xanh từ cái thuở xa xưa. Bầu trời ấy qua thơ ca của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... đã cao xanh, giờ đây càng trở nên xanh cao hơn nữa. Vì trong sắc xanh muôn thuở của bầu trời, này có thêm sắc xanh của lòng người được hưởng độc lập, tự do. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Trời thu xanh ngắt sáng tuyên ngôn
Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(Tố Hữu)
Nhìn sang bên kia là những dãy núi, những cánh rừng trùng trùng điệp điệp “Núi rừng đây là của chúng ta”. Hai chữ “núi rừng” không hề gợi lên cảnh ma thiêng nước độc mà chỉ gợi lên sự giàu có của Tổ quốc, ẩn chứa biết bao tài nguyên phong phú “Rừng vàng bể bạc đất phì nhiêu”. Nhớ lại cảnh quê hương làng xóm trong máu lửa chiến tranh, bầu trời cánh đồng như ứa máu, rách nát bởi dây thép gai, móng vuốt của kẻ thù “Ôi những cánh đồng quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều!” chúng ta mới thấm thía cái vang hưởng của lòng tự hào, niềm kiêu hãnh và ý thức độc lập tự chủ toát ra từ hai câu thơ:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đầy là của chúng ta
Những câu thơ khẳng định, những đại từ chỉ định “đây” cùng với điệp từ ngữ “của chúng ta” đã vang lên dõng dạc niềm tự hào kiêu hãnh về quyền làm chủ đất nước. Cảm hứng này là một cảm hứng mà ta thường gặp trong thơ ca Việt Nam sau ngày giải phóng:
Của ta trời đất, đêm ngày
Núi kia đồng nọ, sông này của ta
(Tố Hữu)
Những câu thơ “Tôi nhớ lại; Tôi đứng vui nghe” là những lời độc thoại của nhân vật trữ tình. Sau lời độc thoại, đến đây dường như nhà thơ hát chung với dàn đồng ca của nhân dân, hoà trong cảm hứng vui sướng, tự hào được làm chủ đất trời thiên nhiên Tổ quốc tươi đẹp:
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Bằng hàng loạt từ “những” một từ chỉ số nhiều không xác định mở đầu các dòng thơ, trước hết tác giả như muốn kể thêm nhiều hơn vẻ giàu đẹp của đất nước, sau nữa đoạn thơ gợi cho người đọc bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra lộng lẫy, bát ngát. Nguyễn Đình Thi sử dụng nhiều tính từ chỉ cảm xúc “thơm mát, bát ngát, đỏ nặng”. Điều đó vừa diễn tả được tình cảm yêu nước thiết tha, nồng nàn của tác giả vừa làm cho bức tranh đất nước như có thêm đường nét, màu sắc, hình khối. Với tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng, dường như tác giả cảm nhận được cả cái vị “thơm mát” của cánh đồng, tận mắt thấy được cái “bát ngát” tự do của những ngả đường mở ra, như trông thấy được cả những dòng sông đỏ nặng phù sa cuộn chảy về xuôi. Câu thơ của Nguyễn Đình Thi thật trĩu nặng suy tư. “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” hay đỏ nặng tấm lòng yêu thương và tự hào đối với đất nước của tác giả? Ở đây nhà thơ sử dụng nhiều nguyên âm mở “a, at” cuối dòng thơ cùng đã góp phần diễn tả thành công cái cảm xúc thơ nói trên (Từ cuộc sống có phần tù túng trong năm cửa ô, các văn nghệ sĩ mang balo hành hương lên đất thánh Việt Bắc. Qua bao nhiêu nẻo đường kháng chiến, cảm nhận về đất nước được mở ra theo chiều rộng không gian với bầu trời thu trong xanh, những núi rừng bát ngát của Việt Bắc, những cánh đồng lúa thơm mùi sữa, những dòng sông Lô, sông Thao, sông Hồng cuồn cuộn phù sa).
Từ những cảm nhận về cái hữu hình của đất nước với không gian, bầu trời, cánh đồng, dòng sông, câu thơ đang náo nức, dồn dập reo vui bỗng như trầm lắng hẳn xuống, đượm vẻ thiêng liêng thành kính khi nghĩ về cái vô hình là hồn thiêng đất nước trên chiều dài của thời gian 4000 năm lịch sử:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
“Nước chúng ta”, câu thơ có ba chữ mà như nổi bật lên giữa bài thơ giống như dòng nước đang cuộn chảy bỗng chững lại, dồn nén lại. Câu thơ bình dị mà chất chứa bao nhiêu cảm xúc yêu thương và tự hào.
Nghĩ về quá khứ của đất nước chúng ta, điều làm tác giả cảm phục nhất là truyền thống bất khuất kiên cường. Truyền thống ấy nổi bật lên tạo thành gương mặt rạng rỡ nhất của lịch sử cha ông “Nước những người chưa bao giờ khuất”. Câu thơ giản dị như một lời nói thường nhưng đã làm sống dậy trước mắt ta cả một quá khứ oanh liệt của tổ tiên. Ta như thấy trong đó tư thế của Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... luôn luôn hiên ngang bất khuất trước mọi đợt sóng ngoại xâm hung tàn: Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh.
Sức mạnh anh hùng bao đời của dân tộc đối với hiện tại là một sự thật lớn lao hùng hồn. Nhưng ở đây đã được nhà thơ diễn tả thông qua việc sáng tạo ra một hình tượng âm thanh như không thật, một âm thanh của tâm tưởng hơn là của thính giác: âm thanh rì rầm đêm đêm trong lòng đất vọng từ ngàn xưa vọng tới mai sau. “Rì rầm” là một từ láy tượng thanh rất gợi cảm. Nó không ồn ào vang xa nhưng liên tục đều đặn như dòng suối chảy bất tận. “Rì rầm” trong lòng đất “đêm đêm” còn gợi lên không khí thầm lặng thiêng liêng. “Đất” là hình ảnh tượng trưng cho đất nước, của sự khổng lồ, vĩnh hằng. “Đất” cũng là cái được dựng lên từ mồ hôi nước mắt, kể cả xương máu của biết bao thế hệ cha ông. Với hình ảnh thơ độc đáo này, tác giả đã hình tượng hoá được truyền thống anh hùng của đất nước thành một hình ảnh đầy sức sống, thiêng liêng và vững bền muôn thuở, trở thành nhịp đập của con tim lịch sử Việt Nam bất khuất anh hùng:
Tim Việt Nam có Bạch Đằng ca hát
Có đường gươm “sát thát” chém Toa Đô
Có Nguyễn Trãi trong hồn thơ ý nhạc
Sang sảng ngân trong “Đại cáo bình Ngô”
Đúng là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, vừa mang yếu tố cảm xúc cụ thể vừa có ý nghĩa tượng trưng khái quát sâu xa “Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Nhờ sự kết hợp khéo léo giữa các từ “những... xưa... vọng... về”, câu thơ của Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn tả được tính chất liên tục truyền thống bất khuất kiên cường của dân tộc. Cả quá khứ sâu thẳm của lịch sử đất nước dường như cũng đều có mặt với con cháu hôm nay, luôn luôn nhắn gửi về những lời thiêng liêng tha thiết. Đúng như Lê Anh Xuân đã từng viết:
Nghe như tiếng của cha ông thuở trước
Truyền con cháu hãy ngẩng cao đầu mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa
Hãy viết tiếp bài ca bất khuất ngày xưa
Bằng những câu thơ giàu tính chất suy tư và cảm xúc, bằng những hình ảnh nhân hoá vừa cụ thể vừa tượng trưng, đoạn thơ trên không chỉ thể hiện được niềm vui, niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp và ý thức độc lập tự chủ mà còn bày tỏ được niềm biết ơn thành kính với tổ tiên. Vì hơn ai hết, nhà thơ đã ý thức được những chiến công vẻ vang hôm nay là kết quả của sức mạnh tổng hợp giữa quá khứ oanh liệt của cha ông với cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân ta:
Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không gì quý hơn độc lập tự do.
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 7
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đích thực tài hoa và sáng tạo. Trên các lĩnh vực văn xuôi, thơ, nhạc, kịch bản văn học, lí luận phê bình,... ông đều có thành tựu đáng tự hào. Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ. Thơ ông giàu cảm xúc khi viết về đất nước trong chiến tranh.
Bài thơ "Đất nước" trích trong tập thơ "Người chiến sĩ", nó được thai nghén và hình thành trong một thời gian khá dài từ năm 1948 - 1955. Từ thực tiễn lịch sử và sự sống còn của dân tộc, nhà thơ suy ngẫm về đất nước.
Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cảm hứng quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Biểu lộ niềm vui phơi phới của người chiến sĩ cầm súng đánh giặc bảo vệ quê hương, thể hiện tình yêu và lòng tự hào về đất nước với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và truyền thống anh hùng của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Mùa thu nay khác rồi
...
Những buổi ngày xưa vọng nói về".
Cảm hứng yêu nước, tự hào dâng lên dào dạt trong tâm hồn nhà thơ, trong tâm hồn những người chiến sĩ "đã đứng lên thành những anh hùng. Người chiến sĩ đã ra đi từ mùa thu ấy, khi "cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng" (Chính Hữu), giã từ phố cũ thân yêu, dấn thân vào lửa máu.
Đối lập với "những ngày thu đã xa" đẹp mà buồn, là "Mùa thu nay khác rồi". Nhà thơ reo lên sung sướng tự hào, một niềm vui phơi phới dâng trào. Đứng giữa núi đồi chiến khu, say mê ngắm đất trời. Thiên nhiên bao la tươi đẹp như xôn xao niềm vui với con người. Bốn chữ "tôi đứng vui nghe" thể hiện một tư thế, một dáng đứng kiêu hãnh tuyệt vời. Con người chan hòa cùng cây cỏ và say đắm trong màu sắc quê hương. Ngọn gió mát lành màu thu "quyện hương cốm mới" như hát cùng đất nước. Hình ảnh "rừng tre phấp phới" diễn tả thật hay sức sống mãnh liệt của đất trời quê hương:
"Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới...".
Mùa thu lại về với đất nước và con người trong sắc màu tươi sáng: "Mùa thu thay áo mới – Trong biếc nói cười thiết tha". Bao trùm đất nước là cả một không gian bao la, một thiên nhiên đẹp hữu tình được nhân hóa, gắn bó hòa hợp với con người. Con người kháng chiến với khát vọng tự do, nên tầm nhìn cũng cao xa, mênh mông. Có lẽ vì thế nhà thơ đặc biệt chú ý đến bầu trời. Năm lần nhà thơ nói đến bầu trời, mỗi lần có một cách nói, cách cảm nhận đầy khám phá:
"Trời thu thay áo mới",
"Trời xanh đây là của chúng ta".
"Trời đây chim và đất đầy hoa".
"Dây thép gai đâm nát trời chiều".
"Trán cháy rực nghĩ trời đất mới".
Cái khác của mùa thu nay được diễn tả qua vần điệu náo nức, xôn xao, được đặc tả qua hình ảnh sống động, tươi mát: Gió thổi rừng tre phấp phới", được thể hiện ở ánh mắt, nụ cười: "Trong biếc nói cười thiết tha". "Biếc" ở trời xanh, "biếc" ở con mắt những chàng trai, cô gái đang say mê ngắm trời thu thời máu lửa.
Nguyên nhân của niềm vui ấy thật sâu xa, rộng lớn. Cách mạng thành công, nhân dân đã và đang đem tài năng và xương máu để giữ gìn và xây dựng đất nước. Đất nước là của nhân dân. Nguyễn Đình Thi như reo lên, hát lên niềm hạnh phúc tột cùng của những con người đang làm chủ đất nước:
"Trời xanh đây là của chúng ta,
Núi rừng đây là của chúng ta,
Những cánh đồng thơm mát,
Những ngả đường bát ngát,
Những dòng sông đỏ nặng phù sa".
Một lối nói khẳng định: "của chúng ta" vang lên đĩnh đạc, tự hào. Một dân tộc đã gan góc đứng lên đánh Pháp mới có tiếng nói hào hùng ấy. Tất cả những gì cao quý, thiêng liêng trên đất nước thân yêu này là "của chúng ta", của nhân dân chúng ta. Sau những đêm dài nô lệ, nhà nước độc lập, nhân dân ta mới có niềm vui tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào là của bao thế hệ con người Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử: "Của ta, trời đất, đêm ngày – Núi kia đồi nọ sông này của ta" ("Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" - Tố Hữu). Với nghệ thuật diễn tả trùng điệp, với cách liệt kê, sử dụng điệp từ, điệp ngữ (của chúng ta,... đây là... những) tác giả đã tạo nên giọng thơ lôi cuốn, hấp dẫn mang âm điệu anh hùng ca.
Dáng hình đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi hiện lên sống động qua những vần thơ tráng lệ. Nhà thơ như đang ngước mắt chỉ tay về "trời xanh" và "núi rừng", ... mà reo lên sung sướng. Có tình yêu nào lớn hơn tình yêu đất nước? Đất nước bao la, hùng vĩ với trời cao, biển rộng sông dài, ... trở nên thân thiết, thiêng liêng. Đất nước với những cánh đồng quê mênh mông thẳng cánh cò bay, " thơm mát" hương lúa bốn mùa. Đất nước với những nẻo đường tự do, những dặm đường kháng chiến " bát ngát" đến mọi chân trời. Đất nước với những dòng sông – sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã, Cửu Long Giang, ... "đỏ nặng phù sa", bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, nuôi sống nhân dân ta tự bao đời nay. Các tính từ: "Xanh", "thơm mát", "bát ngát", "đỏ nặng", ... cực tả vẻ đẹp và sự bền vững đất nước, đồng thời cho thấy ngòi bút thơ tài hoa, điêu luyện của Nguyễn Đình Thi trong lựa chọn ngôn từ để hình tượng hóa vần thơ, tạo nên sắc điệu trữ tình đằm thắm.
"Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi" (Tố Hữu). Cảm xúc dạt dào ấy về đất nước cứ ngâm nga mãi trong lòng chúng ta khi tiếp cận và cảm thụ những vần thơ của tác giả "Người chiến sĩ" nói về dáng hình đất nước.
So với lớp nhà thơ đương thời, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Cảm hứng lịch sử và truyền thống được kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng thời đại. Có khí quật cường của tổ tiên từ nghìn xưa đem đến cho nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh một sức mạnh vô biên mà không một thế lực thù địch bạo tàn nào có thể khuất phục được:
"Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất,
Những buổi ngày xưa vọng nói về".
Ba chữ "nước chúng ta" là sự khẳng định ý chí tự cường, niềm tự tôn dân tộc. Đất nước và dân tộc với lưỡi cày, thanh gươm và chiếc gộc tre "chưa bao giờ chịu khuất". "Những buổi ngày xưa" mà nhà thơ nhắc đến là những năm tháng đau thương và vinh quang của giống nòi. Quên sao được ngày Bà Trưng, Bà Triệu xuất quân, khi Lý Thường Kiệt viết " Nam quốc sơn hà" trên chiến tuyến sông Cầu – Như Nguyệt, khi Trần Quốc Tuấn bắt Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng Giang, khi Liễu Thăng bị quân ta chém đầu tại Chi Lăng, khi Tôn Sĩ Nghị quăng cả ấn tín, triều phục chạy tháo thân qua biên giới, ... Nhân dân mãi tự hào về "những buổi ngày xưa" ấy:
"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn.
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng".
Hai chữ "đêm đêm" nói lên tính liên tục dòng chảy lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ láy "rì rầm" như một nốt nhạc trầm hùng vang xa trong bài ca Tổ quốc, nó gợi tả cái mạch ngầm của giang sơn, giống nòi, đó là truyền thống anh hùng bất khuất chốn xâm lăng. Biên độ câu thơ mở, khép tài tình, lúc rút ngắn lại 3 từ, lúc duỗi dài ra 8 từ, các câu lục ngôn, thất ngôn, đan chéo vào nhau, cài chặt vào nhau làm nên tính nhạc phong phú. Cảm xúc dào dạt, âm hưởng hào hùng, ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Song song với chuỗi hình ảnh về dáng hình đất nước là sự phát triển của chuỗi liên tưởng về quá khứ hào hùng, về sức mạnh Việt Nam.
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp và cốt cách thơ Nguyễn Đình Thi. Một hồn thơ tài hoa, bay bổng. Một tình yêu nước sâu nặng và thiết tha. Một đất nước đẹp tươi, hùng vĩ, giàu tiềm năng và tiềm lực, một dân tộc anh hùng được nhà thơ nói đến và ca ngợi. Chiều dài của lịch sử, tầm cao của dân tộc, thế đứng bất khuất của con người Việt Nam là những điều tốt đẹp nhất được thể hiện qua đoạn thơ này mà ta cảm nhận được một cách sâu sắc. "Đất nước", bài thơ làm rung động tâm hồn chúng ta..., như "lắng hồn núi sông ngàn năm...".
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 8
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đích thực tài hoa và sáng tạo. Trên các lĩnh vực văn xuôi, thơ, nhạc, kịch bản văn học, lí luận phê bình, ... ông đều có thành tựu đáng tự hào. Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ. Thơ ông giàu cảm xúc khi viết về đất nước trong chiến tranh.
Bài thơ "Đất nước" trích trong tâp thơ "Người chiến sĩ", nó được thai nghén và hình thành trong một thời gian khá dài từ năm 1948-1955.Từ thực tiễn lịch sử và sự sống còn của dân tộc, nhà thơ suy ngẫm về đất nước.
Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cảm hứng quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Biểu lộ niềm vui phơi phới của người chiến sĩ cầm súng đánh giặc bảo vệ quê hương, thể hiện tình yêu và lòng tự hào về đất nước với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và truyền thống anh hùng của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã viết:
... "Mùa thu nay nay khác rồi
...
Những buổi ngày xưa vọng nói về".
Cảm hứng yêu nước, tự hào dâng lên dào dạt trong tâm hồn nhà thơ,trong tâm hồn những người chiến sĩ "đã đứng lên thành những anh hùng. Người chiến sĩ đã ra đi từ mùa thu ấy, khi "cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng" (Chính Hữu), giã từ phố cũ thân yêu, dấn thân vào lửa máu.
Đối lập với "những ngày thu đã xa" đẹp mà buồn, là "Mùa thu nay khác rồi".Nhà thơ reo lên sung sướng tự hào, một niềm vui phơi phới dâng trào. Đứng giữa núi đồi chiến khu, say mê ngắm đất trời. Thiên nhiên bao la tươi đẹp như xôn xao niềm vui với con người. Bốn chữ "tôi đứng vui nghe" thể hiện một tư thế, một dáng đứng kiêu hãnh tuyệt vời.Con người chan hòa cùng cây cỏ và say đắm trong màu săc quê hương. Ngọn gió mát lành màu thu "quyện hương cốm mới" như hát cùng đất nước.Hình ảnh "rừng tre phấp phới" diễn tả thật hay sức sống mãnh liêt của đát trời quê hương:
"Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới...".
Mùa thu lại về với đất nước và con người trong sắc màu tươi sáng: "Mùa thu thay áo mới - Trong biếc nói cười thiết tha". Bao trùm đất nước là cả một không gian bao la, một thiên nhiên đẹp hữu tình được nhân hóa, gắn bó hòa hợp với con người. Con người kháng chiến với khát vọng tự do, nên tầm nhìn cũng cao xa, mênh mông. Có lẽ vì thế nhà thơ đặc biệt chú ý đến bầu trời. Năm lần nhà thơ nói đến bầu trời, mỗi lần có một cách nói, cách cảm nhận đầy khám phá:
"Trời thu thay áo mới",
"Trời xanh đây là của chúng ta".
"Trời đây chim và đất đầy hoa".
"Dây thép gai đâm nát trời chiều".
"Trán cháy rực nghĩ trời đât mới".
Cái khác của mùa thu nay được diễn tả qua vần điệu náo nức, xôn xao,được đặc tả qua hình ảnh sống động, tươi mát : Gió thổi rừng tre phấp phới", được thể hiện ở ánh mắt, nụ cười: "Trong biêc nói cười thiết tha". "Biếc" ở trời xanh, "biếc" ở con mắt những chàng trai, co gái đang say mê ngắm trời thu thời máu lửa.
Nguyên nhân của niềm vui ấy thật sâu xa, rộng lớn. Cách mạng thành công, nhân dân đã và đang đem tài năng và xương máu để giữu gìn và xây dựng đất nước. Đất nước là của nhân dân. Nguyễn ĐÌnh Thi như reo lên, hát lên niềm hạnh phúc tột cùng của những con người đang làm chủ đất nước:
"Trời xanh đây là của chúng ta,
Núi rừng đây là của chúng ta,
Những cánh đồng thơm mát,
Những ngả đường bát ngát,
Những dòng sông đỏ nặng phù sa".
Một lối nói khẳng định: "của chúng ta" vang lên đĩnh đạc, tự hào. Một dân tộc đã gan góc đứng lên đánh Pháp mới có tiếng nói hào hùng ấy. Tất cả những gì cao quý ,thiêng liêng trên đất nước thân yêu này là "của chúng ta", của nhân dân chúng ta. Sau những đêm dài nô lệ, nhà nước độc lập, nhân dân ta mới có niềm vui tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào là của bao thế hệ con người VIệt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử: "Của ta ,trời đất, đêm ngày - Núi kia đồi nọ sông này của ta" ("Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" - Tố Hữu). Với nghệ thuật diễn tả trùng điệp, với cách liệt kê, sử dụng điệp từ, điệp ngữ (của chúng ta,... đây là... những) tác giả đã tạo nên giọng thơ lôi cuốn, hấp dẫn mang âm điệu anh hùng ca.
Dáng hình đất nước trong thơ Nguyễn ĐÌnh Thi hiện lên sông động qua những vần thơ tráng lệ. Nhà thơ như đang ngước mắt chỉ tay về "trời xanh" và "núi rừng", ... mà reo lên sung sướng. Có tình yêu nào lớn hơn tình yêu đất nước? Đất nước bao la, hùng vĩ với trời cao, biển rộng sông dài, ... trở nên thân thiết, thiêng liêng. Đất nước với những cánh đồng quê mênh mông thẳng cánh cò bay, "thơm mát" hương lúa bốn mùa. Đất nước với những nẻo đường tự do, những dặm đường kháng chiến "bát ngát" đến mọi chân trời. Đất nước với những dòng sông - sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã, Cửu Long Giang, ... "đỏ nặng phù sa", bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, nuôi sống nhân dân ta tự bao đời nay. Các tính từ: "Xanh", "thơm mát", "bát ngát", "đỏ nặng", ... cực tả vẻ đẹp và sự bền vững đất nước, đồng thời cho thấy ngòi bút thơ tài hoa, điêu luyện của Nguyễn Đình Thi trong lựa chọn ngôn từ để hình tượng hóa vần thơ, tạo nên sắc điệu trữ tình đằm thắm.
"Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi" (Tố Hữu). Cảm xúc dật dào ấy về đât nước cứ ngâm nga mãi trong lòng chúng ta khi tiếp cận và cảm thụ những vần thơ của tác giả "Người chiến sĩ" nói về dáng hình đất nước.
So với lớp nhà thơ đương thời, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Cảm hứng lịch sử và truyền thống được kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng thời đại. Có khí quật cường của tổ tiên từ nghìn xưa đem đến cho nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh một sức mạnh vô biên mà không một thế lực thù địch bạo tàn nào có thể khuất phục được:
"Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất,
Những buổi ngày xưa vọng nói về".
Ba chữ "nước chúng ta" là sự khẳng định ý chí tự cường, niềm tự tôn dân tộc. Đất nước và dân tộc với lưỡi cày, thanh gươm và chiếc gộc tre "chưa bao giờ chịu khuất". "Những buổi ngày xưa" mà nhà thơ nhắc đến là những năm tháng đau thương và vinh quang của giống nòi. Quên sao được ngày Bà Trưng, Bà Triệu, xuất quân, khi Lý Thường Kiệt viết " Nam quốc sơn hà" trên chiến tuyến sông Cầu - Như Nguyệt, khi Trần Quốc Tuấn bắt Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng Giang, khi Liễu Thăng bị quân ta chém đầu tại Chi Lăng, khi Tôn Sĩ Nghị quăng cả ấn tín, triều phục chạy tháo thân qua biên giới, ... Nhân dân mãi tự hào về "những buổi ngày xưa" ấy:
... "Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước háo thành văn.
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng".
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng" - Chế Lan Viên
Hai chữ "đêm đêm" nói lên tính liên tục dòng chảy lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ láy "rì râm" như một nốt nhạc trầm hùng van xa trong bài ca Tổ quốc, nó gợi tả cái mạch ngầm của giang sơn, gióng nòi, đó là truyền thống anh hùng bất khuất chốn xâm lăng. Biên độ câu thơ mở, khép tài tình, lúc rút ngắn lại 3 từ, lúc duỗi dài ra 8 từ, các câu lục ngôn, thất ngôn, đan chéo vào nhau, cài chặt vào nhau làm nên tính nhạc phong phú. Cảm xúc dào dạt, âm hưởng hào hùng, ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Song song với chuỗi hình ảnh về dáng hình đất nước là sự phát triển của chuỗi liên tưởng về quá khứ hào hùng, về sức mạnh Việt Nam.
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp và cốt cách thơ Nguyễn Đình Thi. Một hồn thơ tài hoa, bay bổng. Một tình yêu nước sâu nặng và thiết tha. Một đất nước đẹp tươi, hùng vĩ, giàu tiềm năng và tiềm lực, một dân tộc anh hùng được nhà thơ nói đến và ca ngợi. Chiều dài của lịch sử, tầm cao của dân tộc,thế đứng bất khuất của con người Việt Nam là những điều tốt đẹp nhất được thể hiện qua đoạn thơ này mà ta cảm nhận được một cách sâu sắc. "Đất nước", bài thơ làm rung động tam hồn chúng ta ... , như "lắng hồn núi sông ngàn năm..".
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 9
Tác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi sục của quân và dân ta. Bài thơ là lời gửi gắm, thức tỉnh sâu sắc cho thế hệ trẻ miền Nam nói chúng và thế hệ trẻ sau này về sứ mệnh của bản thân đối với đất nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để có thêm những hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
……
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Trong khi ở hai khổ đầu, nhà thơ nói đến những tình cảm thân thương, gắn kết của nhân dân, những truyền thống trong gia đình. Qua đó, ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai làm nên đất nước, Đất nước là gì. Thì ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn những trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất Nước.
Hình ảnh của Đất nước hiện lên vừa thân thuộc lại vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do Đất nước kết tinh, hội tụ mà thành. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần của Đất nước “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Từ đó, người đọc sẽ hiểu rõ hơn, thấm thía hơn về sự gắn bó khăng khít của mỗi người đối với đất nước rộng lớn bao la. Sự gắn kết đó thể hiện trong từng nếp sống sinh hoạt, từng hoạt động, cử chỉ vừa thân quen vừa ngập tràn tình yêu thương:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.
Ý niệm của đã được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến trong những trong những câu thơ đầu tiên “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” ở bài này và được tiếp nối qua đoạn thứ 3. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy tình yêu Đất nước là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu đôi lứa được hình thành và phát triển từ tình yêu nước. Một tình yêu hài hòa và lớn lao. Từ đó, mọi người phải có trách nhiệm xây dựng tổ ấm của mình để góp phần vào xây dựng đất nước phồn thịnh. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó, kết nối cộng đồng. Cuối cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người, gắn kết với nhau thành “đất nước vẹn tròn to lớn”.
Hình ảnh “Khi hai đứa cầm tay” còn là để nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Tất cả chúng ta đều chung một gốc gác – Con Rồng Cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ chúng ta phải nhớ đến cội nguồn , truyền nối tình yêu và hy vọng cho các thế hệ sau:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Bằng việc phân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Lời tâm tình của của người anh dành cho em, lời của chàng trai dành cho cô gái qua đoạn thơ vừa tình cảm lại thân thương gần gũi. Đất Nước bao la rộng lớn nhưng khi được đặt ngang với “máu xương của mình” thì hiện hữu một cách chân thực như nhắc nhỡ chúng ta. Ông cha ra đã lấy máu xương của mình, hy sinh, cố gắng suốt mấy nghìn năm để đổi lại sự bình yên, tự do cho Đất Nước. Đất nước là một phần của con người.
Tác giả lặp lại 2 từ “phải biết” như một lời dặn dò mà mỗi chúng ta phải khắc cốt ghi tâm “biết gắn bó san sẻ”, “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm xây dựng Đất Nước, yêu dân tộc và yêu nước. Với phép so sánh bằng những hình ảnh giản dị, ta hiểu được trách nhiệm của nhân dân đối với Đất Nước. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực, phấn đấu để xây dựng, giữ gìn và đưa đất nước đi lên ngày một vững mệnh.
Qua phân tích đất nước đoạn 3 ta hiểu được rằng những người con đất Việt với tình yêu dân tộc nồng nàn chính là yếu tố làm nên Đất Nước. Trong mỗi chúng ta, Đất nước chính là lòng yêu thương và cũng là sứ mệnh phải thực hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người đều cần làm tròn trách nhiệm này thông qua những tình cảm nhỏ bé giữa con người với con người. Con người yêu thương nhau và yêu Đất Nước.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 10
Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948,1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!
Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:
“ Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phất phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới ). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng.
Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn.
Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý : Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực,lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người.
Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 11
Đất nước luôn là một nguồn cảm hứng vô tận cho các thi sĩ, nghệ sĩ thể hiện tình yêu, lòng tự hào và cả sự đau đáu trong mỗi câu chữ. Khi Nguyễn Khoa Điềm viết "Đất Nước", ông đã không chỉ nói về một mảnh đất mà nói về một phần máu thịt, về sự kết nối giữa con người và quê hương. Khổ thơ: “Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa...” là lời gửi gắm của tác giả về một thế hệ mới, những người sẽ tiếp tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với từng câu, từng chữ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ vẽ ra một tương lai sáng lạn cho đất nước mà còn khắc họa sự gắn bó, trách nhiệm và niềm tự hào của mỗi con người đối với tổ quốc.
Đất nước trong bài thơ không chỉ là những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên, những con đường, cánh đồng, hay bến nước mà còn là một khái niệm thiêng liêng, một phần máu thịt của mỗi người dân. Tác giả đã đưa đất nước vào trong từng con người, từng gia đình và thậm chí là những sinh linh mới, như là trách nhiệm và lòng tự hào nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khổ thơ này đã thể hiện một cách rõ ràng nhất tư tưởng của tác giả về mối liên kết giữa con người và đất nước.
“Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa.” Câu thơ không chỉ là lời căn dặn của người cha, người ông dành cho con cháu mà còn là lời nói của tác giả gửi gắm cho thế hệ mai sau. Đất nước không chỉ là một địa lý cố định, mà là sự tiếp nối không ngừng, là sự bảo vệ và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều này thể hiện rõ trong hình ảnh con người với vai trò là người bảo vệ, xây dựng đất nước.
Chúng ta có thể thấy rõ rằng, trong quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn là một phần trong tâm hồn mỗi người. Đất nước không phải là nơi chỉ có mảnh đất, cảnh vật mà là những giá trị, là nguồn sống, là sự khổ luyện, là trách nhiệm và tình yêu. Đó là lý do vì sao tác giả lại nhắc đến việc "mang đất nước đi xa" như là một sứ mệnh thiêng liêng và quan trọng.
Lời nhắn nhủ của tác giả trong khổ thơ này là rất rõ ràng. Đất nước cần được bảo vệ, cần được phát triển, và mỗi người cần phải có trách nhiệm với nó. Cái trách nhiệm ấy không phải là thứ gì đó mơ hồ, mà là một sự kết nối sâu sắc, là niềm tự hào, là tình yêu với chính quê hương của mình. Chúng ta không thể nào quên rằng đất nước này chính là nơi đã sinh ra chúng ta, đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn.
Khổ thơ "Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" như một lời gửi gắm không chỉ của tác giả mà còn là lời nhắc nhở của mọi người dành cho thế hệ tương lai. Đất nước cần được tiếp nối, gìn giữ và phát huy giá trị. Điều này thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ, khiến cho người đọc không chỉ hiểu về đất nước mà còn cảm nhận được một tình yêu sâu sắc, một trách nhiệm mà mỗi người cần phải gánh vác.
Khổ thơ này là một phần của bài thơ "Đất Nước" mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm tất cả tâm huyết của mình. Đất nước là một phần không thể thiếu trong trái tim mỗi con người, và mỗi người cần phải có trách nhiệm trong việc gìn giữ và phát triển mảnh đất ấy. Bài thơ là lời nhắc nhở, lời dặn dò không chỉ về quá khứ mà còn về tương lai của đất nước, về sự tiếp nối vô tận của những giá trị văn hóa, truyền thống và lòng yêu nước của dân tộc.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 12
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, hai từ "Đất Nước" đã bao lần được khắc họa trong thơ ca, nhưng chưa bao giờ chúng lại trở nên gần gũi và thiết thực đến vậy như trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước không chỉ là một địa lý, mà là nơi chở che, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người. Khổ thơ “Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa” mở ra một chân trời mới, khi thế hệ sau sẽ tiếp nối hành trình của những người đi trước. Đất nước ở đây không chỉ là mảnh đất địa lý, mà là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi con người đối với sự phát triển và tồn tại vững bền của Tổ quốc.
Khổ thơ mở ra một không gian và thời gian nối tiếp nhau. Tác giả không chỉ nhìn vào hiện tại mà còn hướng đến tương lai, đến thế hệ tiếp theo. Đất nước, qua ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm, là một sự tiếp nối bất tận giữa các thế hệ, là sự chung tay, gắn kết của con người với Tổ quốc. "Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" – câu thơ này không chỉ thể hiện ước mơ của tác giả mà còn là lời nhắn nhủ của ông về sự nối tiếp giữa các thế hệ, một mối liên kết không thể thiếu giữa những người con của đất nước.
Bài thơ không chỉ nói về trách nhiệm của thế hệ hôm nay mà còn về sự kỳ vọng vào thế hệ tương lai. Điều này được thể hiện rõ qua cách mà tác giả khắc họa mối quan hệ giữa con người và đất nước. Đất nước không chỉ là một không gian vật lý mà là một phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi người. Đất nước là nơi gắn bó, là nơi mỗi con người đều mang trong mình một phần không thể thiếu, không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần.
"Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" chính là lời dặn dò của tác giả dành cho thế hệ mai sau. Đây là một lời nhắc nhở không chỉ về trách nhiệm mà còn về tình yêu đối với đất nước. Câu thơ này còn mang trong nó một thông điệp vô cùng quan trọng, đó là việc gìn giữ và bảo vệ đất nước là trách nhiệm của mỗi con người, mỗi thế hệ. Và để làm được điều đó, mỗi chúng ta phải có một tình yêu sâu sắc và trân trọng đối với Tổ quốc.
Đất nước không chỉ là một nơi sinh sống, mà là một phần trong trái tim mỗi con người. Từ những người con đã hy sinh xương máu, cho đến những người hôm nay, mỗi người đều mang trong mình trách nhiệm và tình yêu với quê hương. Đất nước là một khái niệm thiêng liêng, là máu xương của mỗi người dân. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy trách nhiệm và lòng tự hào đối với đất nước trong lòng mỗi người. Chính vì vậy, đất nước không chỉ là một địa lý, mà là một phần không thể tách rời trong tâm hồn của mỗi con người.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 13
Mỗi khi nhắc đến Đất Nước, ta nghĩ ngay đến những hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng và gần gũi như những cánh đồng lúa chín vàng, những dòng sông hiền hòa chảy qua bao thế hệ. Nhưng trong bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không chỉ là khái niệm về mặt địa lý, mà còn là một phần trong trái tim mỗi con người. Đặc biệt, khổ thơ “Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa” là lời dặn dò sâu sắc của tác giả, nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm nối tiếp và phát huy những giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Khổ thơ này không chỉ khắc họa tương lai mà còn nhấn mạnh vai trò của mỗi thế hệ trong việc bảo vệ và phát triển đất nước. Khi nói "Con sẽ mang đất nước đi xa", Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định rằng đất nước không chỉ là nơi mỗi người sinh ra mà còn là phần máu thịt gắn bó với đời sống và sự nghiệp của mỗi con người. Tình yêu với đất nước là điều không thể thiếu trong trái tim của mỗi công dân, là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều đặc biệt trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là cách ông mô tả đất nước không chỉ qua những hình ảnh đẹp đẽ mà còn là một khái niệm gắn liền với trách nhiệm của thế hệ mai sau. Bằng những từ ngữ giản dị nhưng đầy sức mạnh, tác giả khắc họa đất nước như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Đó là nơi nuôi dưỡng, là nơi bao bọc và là nơi mà mỗi thế hệ cần phải cống hiến, gìn giữ.
Đất nước không chỉ là một địa lý, mà là một phần không thể thiếu trong trái tim của mỗi con người. Và khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm chính là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ mai sau: hãy giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp mà thế hệ đi trước đã xây dựng, bảo vệ.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 14
Khi nói đến Đất Nước, người ta thường nghĩ đến những mảnh đất xanh tươi, những cánh đồng mỡ màu, những dòng sông bền bỉ chảy qua bao đời. Nhưng trong bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm, khái niệm về Đất Nước không chỉ đơn giản là một địa lý, mà nó còn là một phần thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người. Khổ thơ “Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa” chính là lời dặn dò sâu sắc mà tác giả gửi gắm cho thế hệ mai sau về trách nhiệm và tình yêu đối với quê hương.
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo đưa hình ảnh của đất nước vào trong lòng mỗi con người. Đất nước không chỉ là nơi sinh ra mỗi chúng ta mà còn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Đó là một phần trong tâm hồn, trong trái tim của mỗi con người. Những hình ảnh như "mang đất nước đi xa" không chỉ đơn thuần là lời căn dặn mà còn là một cách thức để mỗi người trong chúng ta nhớ về trách nhiệm và vai trò của mình trong việc bảo vệ, gìn giữ và phát triển Tổ quốc.
“Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa” - câu thơ này như một lời giao ước giữa các thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ khẳng định trách nhiệm của thế hệ hôm nay mà còn là sự kỳ vọng vào thế hệ mai sau. Đất nước không phải là thứ gì đó sẽ tự tồn tại mãi mãi mà là một tổ hợp những giá trị, những di sản mà con người, qua từng thế hệ, sẽ phải bảo vệ và phát triển. Đó là lý do vì sao trong bài thơ, tác giả đã dùng từ “mang” – như một hành động tiếp nối và gìn giữ.
Đất nước không chỉ là những cánh đồng, bãi biển, dòng sông mà nó chính là những con người, những tổ chức, những truyền thống và những giá trị. Thế hệ mai sau cần phải hiểu rằng, đất nước là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mình. Để có thể tiếp nối và bảo vệ những giá trị đó, mỗi con người phải có trách nhiệm và tình yêu với quê hương. Đất nước không chỉ là nơi sinh ra, mà nó còn là nơi chúng ta cống hiến, phát triển và bảo vệ.
“Con sẽ mang đất nước đi xa” – đó là sứ mệnh của mỗi con người, của thế hệ mai sau. Câu thơ này không chỉ là một lời nhắn nhủ của tác giả mà còn là sự kỳ vọng của mỗi người dân dành cho thế hệ tiếp theo. Đất nước này là máu thịt, là lòng tự hào và là nguồn sức mạnh vô biên. Vì vậy, trong từng bước đi, trong từng hành động, mỗi người cần phải mang theo trong mình tình yêu và trách nhiệm đối với mảnh đất thiêng liêng này.
Khổ thơ này của Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy niềm tự hào và trách nhiệm đối với Đất Nước trong lòng mỗi người. Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người. Đó là nơi ta sinh ra, là nơi ta trưởng thành và cũng là nơi ta cống hiến, bảo vệ. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ khẳng định tình yêu với đất nước mà còn khắc họa rõ trách nhiệm lớn lao mà mỗi thế hệ cần phải gánh vác.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 15
Đất nước là một khái niệm gắn liền với trái tim của mỗi con người. Đó không chỉ là một mảnh đất mà là nơi nuôi dưỡng, bảo vệ và chở che cho mỗi sinh linh. Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa rõ nét về Đất Nước trong bài thơ của mình. Đặc biệt, khổ thơ "Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" như một lời nhắc nhở sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ hôm nay đối với đất nước và sự tiếp nối, phát triển của thế hệ mai sau.
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo đưa hình ảnh Đất Nước vào trong từng người dân, từng thế hệ, khẳng định rằng Đất Nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một phần trong cuộc sống của mỗi con người. Đất nước là nơi ta sinh ra, là nơi nuôi dưỡng và là nơi ta cống hiến. Đất nước trong bài thơ của tác giả chính là một phần máu thịt trong con người, một phần trong trái tim của mỗi người dân.
“Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa” – câu thơ không chỉ là một lời căn dặn mà còn là sự kỳ vọng vào thế hệ tiếp theo. Tác giả mong muốn rằng thế hệ mai sau sẽ tiếp tục mang theo tình yêu và trách nhiệm đối với Đất Nước. Đất Nước không chỉ là một mảnh đất, mà là nơi hình thành và phát triển những giá trị tinh thần vô giá. Vì vậy, Đất Nước luôn cần sự đóng góp, bảo vệ và phát triển từ thế hệ đi trước và tiếp nối từ thế hệ sau.
Đất nước là nơi ta lớn lên, học hỏi và trưởng thành. Đất nước là nơi ta tìm thấy nguồn cảm hứng, sự sống và cả những niềm tin vững vàng. Để bảo vệ và phát triển Đất Nước, mỗi người cần có trách nhiệm, mỗi thế hệ cần cống hiến cho Tổ quốc. Từ những công sức nhỏ bé đến những hi sinh lớn lao, mỗi hành động đều góp phần xây dựng một đất nước vững mạnh.
Khổ thơ "Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" như một lời nhắn nhủ của tác giả gửi đến thế hệ hôm nay và mai sau. Đất Nước không phải là thứ có thể tự tồn tại mà cần có sự bảo vệ, phát triển không ngừng. Đây là lời khẳng định về trách nhiệm lớn lao mà mỗi người phải mang trong mình. Đất nước này là máu thịt của mỗi con người, và trách nhiệm của mỗi thế hệ là không thể phủ nhận.
Tóm lại, khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa rất rõ ràng về Đất Nước trong mỗi người dân. Đất Nước không chỉ là mảnh đất mà ta sinh ra, mà còn là nơi ta yêu thương, gìn giữ và phát triển. Câu thơ "Mai này con ta lớn lên / Con sẽ mang đất nước đi xa" không chỉ thể hiện trách nhiệm của thế hệ trước mà còn là lời nhắn nhủ của tác giả gửi đến thế hệ mai sau, rằng hãy luôn mang trong mình tình yêu, lòng tự hào và trách nhiệm đối với mảnh đất thiêng liêng này.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

