Top 8 phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà (hay, ngắn gọn)



Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Dàn ý kenkenpham

I. Mở bài:

- Giới thiệu bài thơ Hầu trời.

II. Thân bài:

- Phân tích bài thơ hầu trời

1. Mở đầu bằng cách giới thiệu câu chuyện:

- Câu chuyện xảy ra vào đem qua, một khoảnh khắc yên lặng, yên tĩnh

- Câu chuyện kể về giấc mơ muốn lên cõi tiên của tác giả, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người thi nhân

- Tâm trạng nữa thực nữa mơ của thi nhân

2. Thi nhân đọc thơ cho trờ và Chư tiên nghe

- Đọc thơ một cách hào hứng

- Thi nhân kể về cuộc sống và công việc của mình

- Giọng thơ của thi nhân hóm hỉnh, ngông

3. Thái độ của người nghe:

- Trời tỏ ra rất tâm đắc và khen ngợi thi nhân

- Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và tâm đắc

4. Thi nhân trò chuyện với trời:

- Khẳng định cái tôi của mình

- Cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái của tác giả

- Cảm hứng nghệ thuật bao trùm nguyên bài thơ

II. Kết bài:

- Nêu cảm nhận của em về bài thơ Hầu trời

Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà

kenkenpham - mẫu 1

     Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo logic một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: Nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

     Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.”

     Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.

     Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

     Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: Gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :

“ Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…”

     Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

     Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân:

 Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!…
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!””

     Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của
mình:

Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

     Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại:

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

     Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.

     Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.

     Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ - câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.

     Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.

kenkenpham - mẫu 2

Bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà, một tác phẩm độc đáo trong nền văn học hiện đại Việt Nam, phản ánh sự mỉa mai, trào phúng về tình trạng văn học và xã hội thời bấy giờ. Tác giả đã dựng lên một câu chuyện tưởng chừng như kỳ ảo, nhưng lại chứa đựng những bài học sâu sắc về cuộc sống và văn chương, qua đó thể hiện sự trăn trở của người nghệ sĩ về cuộc đời và giá trị của tác phẩm nghệ thuật.

Bài thơ mở đầu bằng một tình huống kỳ diệu: tác giả nằm trong bóng đêm, một mình và ngâm thơ, rồi bỗng nhiên có hai cô tiên đến và mời tác giả lên trời vì những câu thơ ngâm vang cả sông Ngân Hà:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình, 

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.”

Đây là một hình ảnh mơ mộng, gợi lên sự yên tĩnh, thanh thản của đêm khuya, khi tác giả thả hồn vào thơ. Đột ngột, sự xuất hiện của hai cô tiên và cuộc hành trình lên trời không chỉ là một yếu tố huyền bí mà còn mang tính chất tượng trưng, cho thấy sự khao khát và ước mơ về một thế giới khác, một nơi mà tài năng được ghi nhận và đánh giá đúng mức.

Bài thơ không chỉ kể lại một chuyến đi kỳ thú, mà ẩn sau đó là một sự phê phán, chỉ trích mạnh mẽ đối với tình trạng văn học và xã hội đương thời. Khi tác giả được tiếp đón tại Thiên đình, Trời và các tiên nữ đều tán dương văn chương của tác giả:

“Văn dài hơi tốt ran cung mây! 

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.”

Sự mỉa mai ở đây là rõ rệt. Tác giả cho thấy rằng văn chương, dù không có giá trị thực chất, nhưng vẫn có thể nhận được sự khen ngợi và đánh giá cao từ xã hội, giống như trong câu chuyện, Trời khen ngợi những tác phẩm của tác giả mà không hề xét đến giá trị đích thực của chúng. Đây là sự trào phúng sâu sắc về tình trạng thịnh hành của những tác phẩm thiếu chiều sâu, chỉ chạy theo hình thức.

Khi trở về thực tế, bài thơ không quên phơi bày sự nghèo khổ, thiếu thốn mà những người làm văn như tác giả phải chịu đựng. Mặc dù có tài năng và được ngưỡng mộ trên trời, nhưng khi quay lại cuộc sống trần gian, tác giả vẫn phải đối mặt với những khó khăn và khổ cực trong đời sống thường nhật:

“Cảnh con thực nghèo khó, 

Trần gian thước đất cũng không có.”

Điều này thể hiện một thông điệp rõ ràng: người làm văn, dù có tài năng, vẫn không thể thoát khỏi sự nghèo khó và khó khăn trong xã hội. Các tác phẩm của họ không được đánh giá đúng mức, và ngay cả khi có tài, họ vẫn phải sống trong sự bấp bênh, thiếu thốn.

Tản Đà đã khéo léo kết hợp giữa yếu tố kỳ ảo và thực tại để chỉ trích những giá trị sai lệch trong xã hội. Việc tác giả bị Trời phê phán vì "tội ngông", và những lời khuyên của Trời như một sự châm biếm sâu sắc, thể hiện sự trân trọng đối với văn hóa và nghệ thuật đích thực, nhưng lại phê phán những tác phẩm chỉ chạy theo hình thức:

“Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết 

Thôi con cứ về mà làm ăn.”

Điều này cho thấy tác giả không chỉ chỉ trích xã hội mà còn bày tỏ sự thất vọng đối với những người chỉ chạy theo lợi ích mà không hiểu được giá trị sâu sắc của văn chương. Cuộc sống của người nghệ sĩ không chỉ là một cuộc hành trình tìm kiếm sự công nhận, mà còn là một sự đấu tranh kiên cường giữa lý tưởng và thực tế.

“Hầu trời” là một bài thơ thể hiện sự tài tình của Tản Đà trong việc kết hợp giữa yếu tố kỳ ảo và phê phán hiện thực. Bằng việc sử dụng câu chuyện về việc "lên trời", Tản Đà không chỉ phản ánh được sự nghèo khổ, gian khó của người nghệ sĩ mà còn chỉ trích những giá trị văn học và xã hội đương thời. Bài thơ là một tiếng nói đầy chua chát, mỉa mai đối với sự giả tạo trong xã hội và sự bế tắc của những người làm văn. Tản Đà đã khéo léo chỉ ra rằng, dù có tài năng, người nghệ sĩ vẫn phải sống trong những khó khăn, mà tài năng của họ đôi khi không được đón nhận đúng mức.

kenkenpham - mẫu 3

Tản Đà là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách thơ độc đáo, mang đậm nét riêng biệt. Bài thơ "Hầu Trời" là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng mộng mơ, huyền bí và hiện thực cuộc sống. Thông qua câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa một người trần gian với tiên giới, Tản Đà đã khéo léo lồng ghép những suy tư về xã hội, văn học và con người. Trong bài thơ này, ông không chỉ thể hiện tài năng sáng tác, mà còn bày tỏ những trăn trở về đời sống văn chương, về sự công nhận và giá trị thực sự của người làm văn trong xã hội đương thời.

Bài thơ mở ra bằng một không gian huyền bí, đậm chất ảo mộng. Tản Đà đã khéo léo đưa người đọc vào một thế giới tưởng chừng như không có thật, nhưng lại rất sống động và chân thật trong cảm nhận của nhân vật. Chúng ta thấy nhân vật chính không rõ ràng, mơ màng giữa hai thế giới, thực và mộng: 

“Đêm qua chẳng biết có hay không, 

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.” 

Lối mở đầu này không chỉ tạo ra một không gian mơ hồ mà còn phản ánh sự hoang mang của con người khi đối diện với những câu hỏi về cuộc sống, về chân lý. Liệu có thật sự tồn tại một thế giới tiên giới, hay đó chỉ là những điều huyền bí được thêu dệt lên trong tâm trí của con người?

Nhân vật chính bỗng nhiên được "lên tiên", gặp Trời và được giao nhiệm vụ kể lại văn chương. Đây là một hình ảnh mà Tản Đà sử dụng để mỉa mai sự giả tạo trong xã hội, nhất là trong lĩnh vực văn chương, khi mà nhiều khi những tài năng thực sự lại không được công nhận, còn những người có tài mà không có thực lại được nâng cao, thậm chí thần thánh hóa. 

“Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ 

Thiên môn đế khuyết như là đây!” 

Hình ảnh "cửa son đỏ" hay "thiên môn đế khuyết" vừa đẹp, vừa mang tính chất cao siêu, thể hiện sự hoành tráng của tiên giới, nhưng cũng phản ánh sự xa hoa, vô thực của những cái được cho là "cao siêu" trong đời sống.

Điều đặc biệt trong bài thơ này là việc nhân vật chính được giao nhiệm vụ đọc văn, như một sự phô trương tài năng. Nhưng khi được hỏi về văn chương, nhân vật chỉ đọc những đoạn văn đã được in sẵn, mang tính chất khoe mẽ mà không có chiều sâu: 

“Văn dài hơi tốt ran cung mây! 

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay, 

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi 

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày.” 

Ở đây, tác giả thể hiện sự châm biếm về những tác phẩm văn chương có phần hình thức hơn là thực chất, chỉ đẹp về mặt từ ngữ mà thiếu đi ý nghĩa thực tế. Cảnh "văn dài hơi tốt ran cung mây" cũng phản ánh sự thiếu vắng giá trị đích thực trong một số sản phẩm văn hóa, mà người làm văn chỉ chăm chăm vào sự khen ngợi ngoài mặt, không để tâm đến chất lượng và ý nghĩa thực sự.

Dù được khen ngợi về tài năng văn chương, nhân vật chính vẫn không thể che giấu được sự nghèo khó, thiếu thốn của người làm văn trong xã hội lúc bấy giờ. Cảnh tượng mà Tản Đà miêu tả là một bức tranh u tối về những khó khăn mà người văn sĩ phải đối mặt: 

“Cảnh con thực nghèo khó 

Trần gian thước đất cũng không có.” 

Điều này thể hiện một hiện thực phũ phàng mà nhiều người làm văn phải trải qua: dù có tài năng, dù có hoài bão, nhưng thực tế lại quá khắc nghiệt và thiếu sự công nhận xứng đáng. Điều này càng làm nổi bật sự bất công trong xã hội lúc bấy giờ, nơi những tài năng thực sự khó có thể sống sót trong một môi trường thiếu sự quan tâm và yêu mến.

Cuối cùng, khi nhân vật chính từ tiên giới trở lại trần gian, chúng ta nhận ra một điều sâu sắc: dù có mơ mộng đến đâu, dù có lên được tiên giới, thì cuộc sống thực vẫn là điều quan trọng nhất. Tản Đà không chỉ muốn vẽ nên một bức tranh ảo mộng đẹp đẽ, mà còn muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống vẫn luôn gắn liền với thực tế: 

“Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy 

Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.” 

Cảnh vật trở lại trần gian, với tiếng gà sáng và những lo toan đời thường, phản ánh rằng dù có trải qua bao nhiêu mơ mộng hay huyền bí, cuối cùng con người vẫn phải quay về với thực tại, nơi có những khó khăn và thử thách phải đối mặt.

Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà là một tác phẩm kết hợp giữa sự mơ mộng và thực tế, giữa huyền bí và hiện thực. Tản Đà đã khéo léo sử dụng hình ảnh thiên giới và cuộc gặp gỡ với Trời để phản ánh những vấn đề trong xã hội đương thời. Bài thơ không chỉ là sự miêu tả về một chuyến "lên trời", mà còn là sự phê phán về tình trạng xã hội, về những người làm văn không được công nhận đúng mức, và về sự khó khăn, nghèo khổ trong đời sống của họ. Bằng cách này, Tản Đà vừa tạo ra một không gian tưởng tượng, vừa phản ánh những nỗi niềm, suy tư về con người và cuộc sống, qua đó gửi gắm thông điệp về sự chân thật và công bằng trong xã hội.

Dàn ý Phân tích cái tôi ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời

1. Mở Bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả và phong cách thơ văn.

- Hầu trời là một trong những bài thơ hay nhất của Tản Đà mà ở đó người ta thấy rõ được cái chất thơ của người thi sĩ, mà nổi bật nhất làm nên giá trị đặc sắc của bài thơ là một cái "ngông" rất Tản Đà.

2. Thân Bài

a. Nền tảng của cái "ngông" trong Hầu trời:

- Giấc mơ được lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

- Nỗi cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi "Hạ giới văn chương rẻ như bèo", nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi lòng của thi sĩ.

b. Tản Đà "ngông" trong lúc đọc thơ cho chư tiên cùng Trời nghe:

- Phong thái ung dung, thích chí và vô cùng tự tin, ông đọc những vần thơ của mình một cách say sưa, mê đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ "Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lí lại văn chơi"

- Thi sĩ tự nâng cao giá trị và tầm vóc bản thân ngang bằng với việc được nhà trời săn sóc, châm trà cho "nhấp giọng" để lấy tinh thần đọc thơ.

- Tự khen thứ văn chương của mình bằng những lời mà đôi lúc tôi nghĩ là có phần hơi tự phụ, kiêu căng một chút "Văn dài hơi tốt ran cung mây", đắc chí vì thần tiên cũng phải tấm tắc khen "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay".

=> Xóa nhòa đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi.

- Tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng văn chương mà mình có được, vô cùng tâm đắc với thành tựu của mình chỉ muốn sao để người ta phải công nhận và thán phục.

- Tự tin, vui vẻ khoe rằng "Nhờ Trời văn con còn bán được", ngầm chứng minh rằng thơ văn của ông có sức hút mạnh mẽ vô cùng, bởi trong thời cuộc rối ren mà người ta vẫn muốn đọc sáng tác của Tản Đà.

c. Cái "ngông" trong khi trò chuyện cùng Trời:

- Lối nói của ông không hề có sự e dè sợ hãi, mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực, xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái.

- Xem chư tiên và Trời là những người bạn tâm giao, kể lể về cuộc sống nghèo khó, khiến những nhà trí thức phải nhiều phen khốn đốn.

- Cho mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội "ngông", rồi lại được Trời giải thích rằng sai Tản Đà xuống làm việc "thiên lương".

- Vinh hạnh được thiên đình ưu ái cho xe Khiên Ngưu đưa tiễn, chúng tiên thì lũ lượt tiễn đưa.

- Cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái "ngông" của Tản Đà nổi bật hơn

3. Kết Bài

- Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm hoặc nêu cảm nghĩ cá nhân.

Phân tích cái tôi ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời

     Xuân Diệu đã từng nhận xét Tản Đà: “có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái tôi”. Đây quả là một nhận xét xác đáng về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi ngông ngạo, hơn đời của Tản Đà. Cái tôi “ngông” là một nét đặc sắc, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. Và được thể hiện đặc biệt rõ nét qua tác phẩm Hầu trời.

     Ngông là khái niệm để chỉ tính cách ngang tàng, bất cần. Nhưng đối với kẻ sĩ ngông chính là để thể hiện một cái tôi cao ngạo, khác người. Bởi họ tự tin vào tài năng, nhân cách của bản thân, họ dám đem tài năng để khẳng định với đời.

     Ngông vốn không phải là khái niệm xa lạ trong văn học, ta có thể kể đến những tác giả tiêu biểu cho lối sống đó như cái tôi rất ngông của Nguyễn Công Trứ:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

     Hay Tú Xương:

Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào ông nói ngông
Trên bảng năm ba thầy cử đội
Bốn kì mười bảy cái ưu thông.

     Đến Tản Đà, cái ngông tiếp tục được phát triển và được khẳng định một cách mạnh mẽ. Cái ngông trong bài Hầu trời trước hết được thể hiện trong hành động muốn được lên trời, bởi ông cho rằng chỉ có Trời mới đánh giá đúng tài năng của mình:

     Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

     Cách vào đề của ông thật dí dỏm, hài hước, ông một mực khẳng định việc mình được lên tiên là thật, không hoảng hốt, không mơ mòng, cái thật ở cả phách, hồn, thân thể. Cuộc vượt thoát trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Đồng thời ông cũng lí giải lí do mình lên tiên:

“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm trời mất ngủ, trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

     Câu thơ như một lời khẳng định tài năng của bản thân vọng vang cả trời đất, khiến cả Trời cũng phải sai người xuống mời ông lên đọc. Đây là biểu hiện thứ nhất trong cái tôi ngông ngạo của Tản Đà.

     Không dừng lại ở đó, ý thức khẳng định cái tôi được thể hiện rõ hơn ở đoạn ông tự khen chính mình:

“Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”

     Tài năng hơn người khiến Tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cái tôi cá nhân, những tác phẩm của ông đều được liệt kê với những đặc điểm nổi bật của chúng: Khối tình con, Thần tiên, Giấc mộng. Rồi ông tự khen mình “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không phải là lần đầu tiên Tản Đà tự khen ngợi mình, trong bài Tự trào ông đã viết: “Vùng đất Sơn Tây nảy một ông/ Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng/ Sông Đà núi Tản ai hun đúc/ Bút thánh câu thần sớm vãi vung”. Cho thấy ý thức cao độ về cái tôi của mình trong thơ ông.

     Nghe những lời nhận xét ấy, trời cũng phải bật buồn cười và phê cho “văn thật tuyệt” “văn trời được thế chắc có ít”. Các chư tiên thì khen ngợi bằng những lời khen ngợi không tiếc lời: lời văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ như sương, êm như gió. Và họ tranh nhau ao ước, dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Quả thật chỉ có ở nơi tiên giới này Tản Đà mới tìm được người bạn tri âm tri kỉ với mình, bởi dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít được trân trọng. Còn ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, bởi chỉ có những người như họ mới cảm nhận được hết tài năng của ông.

     Đã có mấy ai trong văn học, dám xưng họ tên đủ đầy trong tác phẩm của mình, ấy vậy mà có một thi nhân tên Tản Đà, khi hầu trời đã dám làm việc đó: “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/ Quê ở Á Châu và Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Một nhân cách hơn người, một bản lĩnh khác thường ở con người tài năng và nhân cách này. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về bản thân, quê quán, và ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Cách nói thật trịnh trọng, đầy khẳng định về tài năng, nhân cách của chính mình.

     Đồng thời Tản Đà cũng tự nhận mình là một Trích tiên bị đày xuống trần gian vì tôi ngông, nhưng ngay sau đó ông đã khẳng định: “Trời rằng: không phải là Trời đày/ Trời định sai con một việc này/ Là việc “thiên lương” của nhân loại”/ “Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông xuống trần gian để thực hiện một sứ mệnh cao cả, thực hành thiên lương, đem lại đời sống tốt đẹp cho con người. Nhưng đây quả là một nhiệm vụ khó khăn, ở giữa trốn trần gian đầy hiểm ác, bon chen, giữ được thiên lương và truyền bá thiên lương quả thực không hề đơn giản. Việc ông tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời trao cho thấy nhân cách cao đẹp của thi nhân.

"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong"

     Thể thơ thất ngôn trường thiên, đã cho phép tác giả thể hiện một cách thoải mái cảm xúc của bản thân. Bài thơ Hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của Tản Đà trước cuộc đời. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân, ông thời cũng ý thức hiện thực xã hội thối nát lúc bấy giờ. Qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.

Giới thiệu một vài nét về Tản Đà và bài thơ Hầu Trời

   Tác giả

   Tản Đà (1889-1939) là bút danh của Nguyễn Khắc Hiếu. Quê ở Khê Thượng, Bất Bạt nay thuộc Ba Vì, Hà Tây. Tinh thông Hán học, phong tình tài hoa. Là thi sĩ tài ba, tên tuổi chói sáng trên thi đàn Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX. Viết văn làm thơ. Tác phẩm gồm có: Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Khối tình con, Tản Đà vận văn,... Ông là người dịch thơ Đường hay nhất ở nước ta. Cái tôi lãng mạn bay bổng là hồn thơ của Tản Đà: đằm thắm, thiết tha, buồn nhiều mà vẫn gắn bó với quê hương, đất nước. Hoài Thanh xem Tản Đà là "người của hai thế kỉ" vì thơ ông là cái vạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.

   Thể thơ, chủ đề

   Bài thơ "Hầu Trời" viết theo thể thất ngôn trường thiên dài 120 câu thơ (Nhà xuất bản Văn học 1982).

   Bài thơ "Hầu Trời" không chỉ thể hiện cái ngông của Tản Đà mà còn biểu lộ một cốt cách của thi sĩ tài tử, tài hoa và phong thái ung dung thanh cáo của tác giả trước "nỗi đời cay cực" phải bán văn kiếm ăn lần hồi.

Dàn ý Phân tích Trí tưởng tượng và tấm lòng của Tản Đà qua bài thơ Hầu trời

1. Mở Bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận.

2. Thân Bài

a. Tưởng tượng được lên trời

- Giấc mơ được lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

- Nỗi cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi "Hạ giới văn chương rẻ như bèo", nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi lòng của thi sĩ.

b. Tưởng tượng đọc thơ cho chư tiên cùng Trời nghe:

- Phong thái ung dung, thích chí và vô cùng tự tin, ông đọc những vần thơ của mình một cách say sưa, mê đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ "Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lí lại văn chơi"

- Thi sĩ tự nâng cao giá trị và tầm vóc bản thân ngang bằng với chư tiên bằng việc được nhà trời săn sóc, châm trà cho "nhấp giọng" để lấy tinh thần đọc thơ.

- Tự khen thứ văn chương của mình bằng những lời mà đôi lúc tôi nghĩ là có phần hơi tự phụ, kiêu căng một chút "Văn dài hơi tốt ran cung mây", đắc chí vì thần tiên cũng phải tấm tắc khen "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay".

=> Xóa nhòa đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi.

- Tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng văn chương mà mình có được, vô cùng tâm đắc với thành tựu của mình chỉ muốn sao để người ta phải công nhận và thán phục.

- Tự tin, vui vẻ khoe rằng "Nhờ Trời văn con còn bán được", ngầm chứng minh rằng thơ văn của ông có sức hút mạnh mẽ vô cùng, bởi trong thời cuộc rối ren mà người ta vẫn muốn đọc sáng tác của Tản Đà.

c. Tưởng tưởng trò chuyện cùng Trời:

- Lối nói của ông không hề có sự e dè sợ hãi, mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực, xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái.

- Xem chư tiên và Trời là những người bạn tâm giao, kể lể về cuộc sống nghèo khó, khiến những nhà trí thức phải nhiều phen khốn đốn.

- Cho mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội "ngông", rồi lại được Trời giải thích rằng sai Tản Đà xuống làm việc "thiên lương".

- Vinh hạnh được thiên đình ưu ái cho xe Khiên Ngưu đưa tiễn, chúng tiên thì lũ lượt tiễn đưa.

- Cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái "ngông" của Tản Đà nổi bật hơn

d. Thế hiện nỗi khao khát được “tung hoành” của nhà thơ đế thực hiện cái mục tiêu truyền bá “thiên lương’’ cao quý.

3. Kết Bài

- Khái quát lại vấn đề.

Phân tích Trí tưởng tượng và tấm lòng của Tản Đà qua bài thơ Hầu trời

Phân tích Trí tưởng tượng và tấm lòng của Tản Đà qua bài thơ Hầu trời

     Nhà thơ Tản Đà - một ngôi sao sáng trên thi đàn Việt Nam vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX, sống giữa hai thế hệ Nho học và Tây học, thơ của Tản Đà được xem như viên gạch nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Phong cách thơ Tản Đà đầy cá tính, đặc biệt là tính "ngông", bài thơ "Hầu Trời" đã thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi trước cảnh ngộ bản thân và các nghệ sĩ đương thời, đồng thời bộc lộ một trí tưởng tượng đầy phóng túng và tấm lòng ưu ái của Tản Đà.

     Bài thơ được bắt đầu với cách vào đề rất độc đáo và có duyên, tác giả tạo ra một câu chuyện vừa có cảm giác không có thật lại vừa tạo niềm tin là câu chuyện có thật, kích thích sự tò mò cho người đọc, đó là câu chuyện "lên tiên - hầu trời" của Tản Đà với một giọng kể đầy li kì, hấp dẫn. Với trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà thơ đã vẽ nên một quang cảnh tiên giới vừa lộng lẫy vừa trang nghiêm "cửa son đỏ chói", "thiên môn đế khuyết", "ghế bành như tuyết vân như mây". Hơn thế, tác giả còn diễn tả sự tiếp đón có phần long trọng của Trời đối với mình "Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc", "pha nước để nhấp giọng", sau khi trải qua tuần tự các bước lên trời, tiếp đón, Tản Đà bắt đầu đi vào công việc của mình, đó là việc đọc văn "hầu trời". Đây chính là lúc nhà thơ hào hứng và tự hào nhất bởi được Trời mời lên đọc văn, thi sĩ rất cao hứng và có phần tự đắc với văn thơ của mình:

"Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn lý thuyết lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn."

     Nhân vật trữ tình đã có một cơ hội đặc biệt để phô trương sự nghiệp văn chương và tài năng của mình, đến mức "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay" nghĩa là cả Trời và Chư tiên đều cảm thấy phấn khích, xúc động và tán thưởng cùng hâm mộ trước tài năng và sự giàu có của kẻ đang hầu trời. Có thể thấy, cả một đoạn thơ dài dường như chỉ là lời tự đắc và khoe khoang của tác giả, bộc lộ một cái tôi Tản Đà rất ngông nghênh, độc đáo và đầy cá tính. Tuy nhiên điều đó cũng thể hiện rằng Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của bản thân và khao khát được khẳng định tài năng của mình. Sau khi trình bày sự nghiệp thơ văn, thi nhân giới thiệu về mình và nói về cảnh ngộ của người làm văn:

"Văn chương hạ giới rẻ như bèo,

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều,

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu."

     Đó là thực tế nghề văn, tuy cũng là nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống của kẻ theo đuổi nghề văn đầy cơ cực, nghèo khó, đến một tấc đất để ở cũng không có, lại thêm thân phận bị coi thường, rẻ rúng và o ép nhiều bề. Nhà Trời nghe cũng thấu hiểu và khuyên nhủ, an ủi "Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết", nhưng Tản Đà vẫn thầm trách sự bất công đó của nhà trời. Bán văn trên Trời được nhiều thiên tiên đón nhận nồng nhiệt, nhưng với tấm lòng ưu ái của mình, Tản Đà vẫn chấp nhận quay trở về hạ giới để gánh vác "việc thiên lương của nhân loại" mà Trời sai cho. Trở về trần thế trong tâm trạng ngậm ngùi, chua xót "Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi", tiếng gà và tiếng người đã đánh thức nhà thơ, để rồi Tản Đà lại thèm khát được lên trời, một năm có ba trăm sáu mươi đêm "Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!", có lẽ không chỉ một năm mà có khi cả một đời người thi sĩ vẫn phải thèm khát như thế.

     Giây phút lên tiên của Tản Đà trong bài thơ "Hầu Trời" đã cho người đọc được chứng kiến một cái tôi cá nhân đầy ngông nghênh và khao khát khẳng định bản thân giữa cuộc đời của nhà thơ. Với việc sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên không ràng buộc khuôn mẫu, nguồn cảm xúc được thoải mái bộc lộ đã góp phần xây dựng nên hình tượng của một nhà thi sĩ có trí tưởng tượng phóng túng và tâm hồn ưu ái, có ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình.

Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm Hầu trời hay khác:

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.




Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học