Phân tích bài thơ Đò Lèn (điểm cao)

Phân tích bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Phân tích bài thơ Đò Lèn (điểm cao)

Quảng cáo

Phân tích bài thơ Đò Lèn - mẫu 1

    Nguyễn Duy viết bài thơ "Đò Lèn" vào tháng 9 năm 1983, in trong tập thơ "Ánh trăng", xuất bản năm 1984. Bài thơ có hai câu thơ bảy tiếng, một câu thơ chín tiếng, còn lại 32 câu thơ tám tiếng.

    Các dòng thơ nối tiếp xuất hiện như giọng kể tâm tình. Các địa danh thân thuộc của quê hương thân yêu từng gắn bó với tâm hồn của tác giả thời thơ bé, từng in dấu chân, hơi thở, nhịp sống của bà được nhắc lại xiết bao nổi ân tình: Đò Lèn, cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Ba Trại,... Hình ảnh người bà nghèo khổ, tần tảo, đôn hậu... được tái hiện trong những vần thơ bình dị có một sức ám ảnh và cuốn hút kì lạ. Nguyễn Duy mồ côi mẹ, sống trong sự chăm chút yêu thương của bà ngoại, nên lời thơ mới chân thực và cảm động như vậy. Càng về cuối, giọng thơ càng bùi ngùi nhớ thương bà.

    Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ của một chú bé nhà nghèo, thích chơi bời lêu lổng, nghịch ngợm... chẳng kém ai: đi câu cá ở cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, đi bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, cũng có "đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần". Có những câu thơ giản dị, bình dị như lời nói mà gợi lên nhiểu rung động về cái hồn nhiên, ngộ nghĩnh của một cậu bé nơi làng quê trước đây:

    "níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và dôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần".

Quảng cáo

    Cũng đã từng "lên chơi đền Cây Thị". Với đôi chân đất của con nhà nghèo, vẫn háo hức trong mùa lễ hội, vẫn "đi đem xem lễ đền Sòng". "Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh" (Tản Đà), giáp giới với tỉnh Ninh Bình thế mà chú bé vẫn lặn lội đất đi đêm xem lễ đền Sòng".Hoa huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn và bóng cồ đồng "lảo đảo" đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ của Nguyễn Duy:

    "mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng".

    Từ láy "lảo đảo" là cái thần của bức tranh về cô đồng mà chúng ta thường nhìn thấy ở một số lễ hội dân gian. Nguyễn Duy thường nhắc đến hoa huệ với màu trắng và mùi thơm bằng tất cả sự thanh khiết của tâm hồn mình. Hoa huệ trên bàn thờ mẹ:

    "Bần thần hương huệ thơm đêm

    khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn".

    (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

    Trong bài thơ "Đò Lèn",ông cũng hai lần nhắc đến:

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm...

    cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm...

    Sức cuốn hút, ám ảnh của bài thơ "Đò Lèn" là ở hình tượng người bà. Đó là bà ngoại của Nguyễn Duy. Ân hận, khẽ trách mình vô tâm, vô tình: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế". Nhà nghèo, bà lặn lội "mò cua xúc tép" ở đồng Quan để có tiền mua gạo nuôi cháu. Bà đi gánh thuê chè xanh Ba Trại, gánh nặng, đường xa và gồ ghề, đêm tối và gió rét, đỏi chân bà "thập thững" bước đi. Đôi vai "chín dạn" vì gánh đòn tre. Chân bước cao bước thấp, lúc ngả lúc nghiêng, bước đi "thập thững" trong đêm tối, trong gió rét. Bà vất vả và cơ cực. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những cái cò lặn lội trong cuộc đời. Nguyễn Duy đã gửi gắm bao tình thương và biết ơn đối với bà:

    "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn".

Quảng cáo

    Năm đói, một củ dong riềng luộc sượng bà dành cho cháu. Trong vị ngon ngọt của củ dong riềng, đứa cháu "nghe" được mùi thơm của huệ trắng, của hương trầm. Nguyễn Duy đã lấy mùi thơm của huệ trắng, hương trầm để diễn tả những xúc cảm về tình thương bao la, mênh mông của bà. Bà hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Tiên, Phật, thánh soi sáng lòng từ bi, bác ái mà bà hướng tới. Sống trong tình thương ấp ủ của bà, nên đứa cháu mới thấu hiểu được lòng bà, tâm hồn của bà:

    "Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực

    giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần".

    Giữa thời khói lửa, bom đạn giội làm nhà bà "bay mất", đền Sòng cũng "bay", chùa chiền "bay tuốt cả",... Khi mà "thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết" bà vẫn trụ vững giữa cuộc đời, bà vẫn bươn bả kiếm sống, bà vẫn chống chọi với mọi khó khăn lam lũ:

    "bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn".

    Đó là một nét vẽ rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà của nhà thơ; và đó cũng là hình ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.

    Đoạn cuối nói lên nỗi xúc động của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:

    "Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

    dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

    khi tôi biết thương bà đã muộn

    bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi".

    Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và tính triết lí đã tạo nên sự rung cảm sâu xa của vần thơ. Dòng sông xưa mà tác giả nói đến là sòng Chu, sông Mã, sông Đò Lèn. Những năm dài chiến tranh loạn lạc đã đi qua. Ọuê hương đất nước thanh bình, ngày một đổi thay, ngày một tươi đẹp. Câu thơ "dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi" mang hàm nghĩa về cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay của quê hương xứ sở.

    Câu cuối bài thơ "bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi" cũng mang ý vị triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian và vũ trụ. Câu thơ của Nguyễn Duy man mác buồn, làm ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong "Cung oán ngâm khúc":

    "Trăm năm còn có gì đâu

    Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".

    Bà ngoại đã mất, nhưng tình thương và sự tẩn tảo của bà vẫn còn lại mãi với con cháu.

    "Đỏ Lèn" là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Cùng với "Bếp lửa" của Bằng Việt, bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy là bông hoa nghệ thuật tô đẹp hình tượng người bà kính yêu trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.

    Hơn mười địa danh được nhà thơ nhắc đến đã làm cho ý nghĩa bài thơ thêm đẹp và sâu sắc: tình yêu bà, yêu gia đình gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. "Đò Lèn" là một trang thơ cảm dộng về kí ức tuổi thơ của người lính.

Dàn ý Phân tích bài thơ Đò Lèn

I. Mở bài:

   - Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy: Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ chống Mỹ và có nhiều tác phẩm nổi bật, đặc biệt trong giai đoạn sau chiến tranh.

   - Giới thiệu bài thơ "Đò Lèn" và khẳng định đây là một tác phẩm mang đậm tính hoài niệm về tuổi thơ, quê hương, gia đình và tình yêu đối với bà, cùng những nỗi niềm về sự mất mát sau chiến tranh.

   - Bài thơ không chỉ là hồi ức của tác giả về một thời gian khó mà còn là sự thể hiện nỗi ân hận của một người khi không thể chăm sóc và yêu thương bà trong suốt quãng thời gian còn lại.

II. Thân bài:

1. Khái quát nội dung bài thơ:

   - "Đò Lèn" là những ký ức về thời thơ ấu của tác giả, với hình ảnh bà, quê hương, và những sinh hoạt vất vả nhưng cũng đầy ắp tình cảm.

   - Tác phẩm khắc họa sự gắn bó sâu sắc giữa tác giả và bà, đồng thời phản ánh những mất mát, đau thương trong chiến tranh và nỗi hối tiếc muộn màng khi bà đã qua đời mà tác giả không kịp bày tỏ tình thương.

2. Phân tích hình ảnh và biểu tượng trong bài thơ:

   - Hình ảnh quê hương và tuổi thơ:

     + "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá": Hình ảnh của tuổi thơ yên bình với những trò chơi giản dị, gắn liền với thiên nhiên. Cống Na là một địa danh quen thuộc, biểu trưng cho sự giản dị, trong lành của làng quê.

     + "Níu váy bà đi chợ Bình Lâm": Hình ảnh "níu váy bà" thể hiện sự gắn bó mật thiết, tình cảm chân thành của tác giả với bà. Hình ảnh này thể hiện sự phụ thuộc và tình cảm yêu thương, chăm sóc mà tác giả nhận từ bà.

     + "Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật": Đây là hình ảnh trẻ thơ nghịch ngợm nhưng cũng đầy tính tượng trưng. "Vành tai tượng Phật" thể hiện sự kết nối giữa thế giới vật chất và tinh thần của con người trong không gian thánh thiện, linh thiêng của làng quê.

   - Hình ảnh bà và cuộc sống vất vả:

     + "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế": Câu thơ thể hiện sự ngây thơ, vô tư của tuổi trẻ khi chưa nhận thức được nỗi vất vả, gian khó mà bà phải trải qua.

     + " Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan": Hình ảnh này gợi lên một sự vất vả, kiên trì của bà trong công việc đồng áng, là đại diện cho những người phụ nữ hi sinh cả đời cho gia đình trong điều kiện khó khăn.

     + "Bà đi gánh chè xanh Ba Trại": Cảnh bà làm việc cực nhọc, gánh chè xanh trên đôi vai gầy, thể hiện sự tần tảo, khổ cực của bà trong cuộc sống nghèo khó.

     +"Quán cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn": Hình ảnh này nhắc về một cuộc sống nghèo nàn, tối tăm và lạnh lẽo, đồng thời khắc họa sự vất vả của bà trong những đêm mùa đông.

   - Hình ảnh chiến tranh và sự tàn phá:

     + "Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất": Câu thơ thể hiện sự tàn phá của chiến tranh, không chỉ phá hủy nhà cửa mà còn làm tan vỡ cả gia đình, khiến bà trở thành một người phải đối mặt với cảnh đời khốn khó.

     + "Đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền": Chiến tranh không chỉ phá hoại vật chất mà còn đe dọa niềm tin tâm linh của người dân, khiến những giá trị tinh thần, tâm linh cũng bị hủy hoại.

     + "Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết": Câu thơ này thắc mắc về sự biến mất của những giá trị tâm linh trong chiến tranh, khiến tác giả cảm thấy thế giới này trở nên trống vắng, không còn chỗ cho niềm tin.

   - Nỗi hối tiếc và sự mất mát của tác giả:

     + "Tôi đi lính lâu không về quê ngoại": Tác giả thể hiện sự xa cách với quê hương và gia đình, khi phải đi lính và không thể trở về chăm sóc bà.

     + "Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi": Dòng sông là hình ảnh của thời gian, gợi lại quá khứ và ký ức. Sự thay đổi của dòng sông cũng chính là sự thay đổi của quê hương sau chiến tranh.

     + "Khi tôi biết thương bà thì đã muộn": Tác giả thể hiện sự hối tiếc về việc không kịp yêu thương bà khi còn sống. Đây là cảm giác muộn màng về sự mất mát không thể nào thay đổi.

     + "Kà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!": Câu kết mang nỗi đau sâu sắc, khi bà đã qua đời và chỉ còn lại một nấm cỏ trong nghĩa trang. Tác giả bày tỏ sự tiếc nuối và hối hận khi không thể chăm sóc, yêu thương bà khi còn sống.

3. Ý nghĩa và thông điệp của bài thơ:

   - Tình yêu quê hương và gia đình: Bài thơ thể hiện tình yêu sâu sắc của tác giả với bà, quê hương và những kỷ niệm tuổi thơ. Qua đó, bài thơ cũng phản ánh một phần lớn sự tôn vinh công lao và tình thương vô bờ bến mà bà dành cho tác giả.

   - Mất mát, đau thương trong chiến tranh: "Đò Lèn" là bức tranh về sự tàn phá của chiến tranh, không chỉ phá hủy vật chất mà còn lấy đi những giá trị tinh thần, niềm tin của con người.

   - Sự hối tiếc muộn màng: Tác giả khắc họa cảm giác hối tiếc về việc không thể hiện tình yêu thương với bà khi bà còn sống. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về giá trị của sự trân trọng và yêu thương ngay khi còn có thể.

III. Kết bài:

   - Khẳng định lại giá trị của bài thơ "Đò Lèn".

   - Bài thơ là một thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, quê hương và sự tiếc nuối muộn màng của tác giả. Qua đó, bài thơ nhắc nhở chúng ta trân trọng những người thân yêu và những giá trị tinh thần trong cuộc sống, tránh để đến khi mất mát mới nhận ra giá trị của họ.

Phân tích bài thơ Đò Lèn - mẫu 2

   Nguyễn Duy là một nhà thơ có nhiều đóng góp trong nền thơ ca Việt Nam, bản thân tác giả là một người sớm mồ côi cha mẹ nên cảm xúc của ông về tuổi thơ của mình thật gần gũi và nó gắn bó trong quãng đời của ông, chính vì vậy những cảm xúc đó đã tạo cho ông những nguồn cảm hứng để sáng tác lên bài Đò Lèn.

    Trong một lần về thăm lại quê hương những cảm xúc của quê hương lại vọng lại trong kí ức của tác giả, ông nhớ lại những kí ức xưa bên bếp lửa và những hình ảnh khác khi sống bên người bà của mình, những hình ảnh đó hiện lên trong con người của tác giả có lúc vui có lúc buồn nó đan xen và tạo nên những cung bậc đan xen và thầm kín sâu lắng. Mở đầu bài thơ tác giả đã nói về nỗi nhớ thương trong tâm hồn của tác giả và hình ảnh đó đã tạo nên những nỗi nhớ da diết và dâng trào trong trái tim của tác giả, hình ảnh ấy đã động lại trong tim tác giả một cách sâu sắc, hình ảnh trong những dòng thơ đầu thì cậu bé Duy là một người tinh nghịch, với những trò chơi dân gian phổ biến, lúc thì đi bắt cá lúc thì đi bắt chim sẻ, những hình ảnh đó hiện lên thật sinh động trong con người của tác giả bởi hình ảnh đó hiện lên thật sinh động và ý nghĩa, niềm vui của tác giả về kí ức tuổi thơ khi được chơi những trò chơi đó. Trong kí ức về tuổi thơ có những hình ảnh về những mùi hoa huệ thơm ngào ngạt hòa vào cùng mùi hương bay thấp thoáng trong khoảng không gian ở chùa Trần, tác giả đã nói lên những nỗi nhớ về khoảng thời gian đã qua của mình, giờ đây khi tác giả hồi ức lại thì đó chỉ còn là những nỗi nhớ thương, và xen vào các hình ảnh khác đó là một hình ảnh lắng động nhiều cảm xúc và những nỗi nhớ miên man trong tình yêu tuổi thơ của mình:

Quảng cáo

    Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

    Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

    Hình ảnh đó đã đan xen trong tâm hồn của tác giả sinh động và thật ngộ nghĩnh nó đang bao trùm lên một khoảng không gian vô tận và cuốn hút vào những thú vui của dân gian bằng những câu chuyện hay và nó đem lại cho tác giả nhiều cảm xúc và những hương vị ngọt ngào về một tuổi thơ của mình, các hình ảnh khác cũng được hiện lên đó là những khoảng không gian thanh bình yên tĩnh nơi tác giả đã từng sống, niềm vui của tác giả là được hòa nhập và tạo nên những nỗi nhớ thương trong tâm hồn của tác giả, những nỗi nhớ và hoài niệm đó đã làm cho tác giả nhớ mong và hồi ức lại kí ức tuổi thơ của mình, toàn bộ những hình ảnh và kí ức của tuổi thơ đã được tác giả miêu tả lại để qua đó nói lên những nhịp điệu nhẹ nhàng và vô cùng tha thiết nó làm cho mỗi chúng ta đều cảm thấy nhớ thương trong kí ức của mình, hình ảnh về một con người tuổi thơ đã tràn ngập trong tâm trí của tác giả, hàng loạt các hình ảnh khác cũng vô cùng thiêng liêng đã gắn bó với tác giả, sớm mồ côi cha mẹ nên tác giả phải ở cùng với bà ngoại hình ảnh gắn bó với người bà cũng đã hiện lên trong kí ức của tác giả:

    Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

    Những hình ảnh trong kí ức của tác giả về người bà của mình đó là một người bà tần tảo chịu thương chịu khó, cả cuộc đời của bà lam lẽ vất vả để kiếm tiền nuôi cháu. Dù cuộc sống của hai bà cháu vô cùng cực khổ vất vả nhưng người bà này vẫn lam lũ để có thể nuôi nấng người cháu của mình, hình ảnh ấy đã thấm đẫm trong tinh thần của người bà, trong những ngày gió rét bà vẫn thập thững những bước đi để kiếm tiền nuôi cháu, có khi mò cua bắt cá nuôi cháu từng ngày, kí ức về người bà làm cho tác giả nhớ tới những kỉ niệm của hai bà cháu, tác giả mong ước và đang hồi ức lại những thời gian bên bà, hình ảnh về người bà của mình đang lam lẽ vất cả từng ngày để kiếm sống nó đã làm cho tác giả có những cái nhìn sâu sắc hơn về chính cuộc đời của bà mình. Nhiều những chi tiết đã được thể hiện sâu sắc qua bài viết qua đó nó thể hiện những nỗi nhớ thương và bao cung bậc cảm xúc dâng trào trong tâm hồn của tác giả, tác giả đang nhớ mong và có hồi ức đẹp về người bà của mình, sự tần tảo đó làm giờ đây khi tác giả nhớ thương lại tác giả có những cảm hứng về những niềm tin và mong ước được đền đáp công ơn nuôi nấng về người bà của mình.

    Trong những kí ức đẹp đấy tác giả đang nhớ mong và da diết trong tình cảm của mình đối với người bà, tác giả nhớ thương lại từ những hình ảnh thân thuộc và nó gần gũi trong tâm hồn của con người dường như tác giả đang cố nhớ lại những kí ức đó bởi kí ức đó thật đẹp và nó tạo nên nhiều ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của con người, nhiều hình ảnh đẹp gợi cảm và vô cùng mạnh mẽ nó đã thu hút nhiều sự chú ý và cũng vô cùng sâu sắc của tác giả, tác giả đang tạo nên những cung bậc khác nhạt nhòa và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong tâm hồn tác giả, vượt qua bao khó khăn và thử thách gian nao của cuộc sống người bà vẫn lặng lẽ và hy sinh cuộc đời của mình cho người cháu để làm nên những điều thật diệu kì, tác giả đã hình dung nhiều hình ảnh khác cũng sinh động và hấp dẫn hơn, nó mang đậm nét những yếu tố dịu kì và cũng mang đậm những nét tiêu biểu cho những thế hệ khác:

    Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

    Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

    dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

    khi tôi biết thương bà thì đã muộn

    bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

    Cảm xúc của nhà thơ đã được thể hiện chân thực và nó mang những dấu ấn trong tâm hồn của tác giả, ông dường như đang nói về những kí ức đó để hồi ức và nhớ thương có chút tiếc nuối về quãng thời gian đã qua của mình, hình ảnh xảy ra đã mang nhiều tiếc nuối trong tâm hồn của tác giả, ông đang rung động và có những nỗi nhớ thương sâu sắc về kí ức tuổi thơ của mình, hàng loạt những hình ảnh khác cũng sinh động và vô cùng hấp dẫn nó tạo nên những cung bậc riêng và giàu cảm xúc trong lòng tác giả, một trong những nỗi nhớ thương thầm kín và sâu sắc đó là nỗi nhớ về một quãng thời gian đã qua chúng ta không ai không từng có kí ức tuổi thơ, vậy mà tác giả đã vẽ lại để mỗi chúng ta có những khoảng thời gian riêng để nghĩ về những kí ức và nhiều kỉ niệm vui đến vậy. Hình ảnh về người bà và hàng loạt những hình ảnh gắn với tuổi thơ của tác giả đã được tác giả thể hiện nó một cách cụ thể và sinh động hơn nó đã mang đậm và có những dấu ấn mạnh mẽ trong tâm hồn của tác giả, những nỗi nhớ mong đó đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi người.

    Những lời xám hối và tiếc nuối về những khoảng thời gian đã qua đã được thể hiện sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, ông dường như đang tiếc nuối về những khoảng thời gian đã qua, nhiều hình ảnh khác cũng thể hiện được điều đó, những hình ảnh sinh động và hàng loạt những chi tiết gợi hình gợi cảm đã được thể hiện sâu sắc trong bài thơ, mỗi chúng ta đều có quyền tự hào về kí ức của mình, nhưng chúng ta chắc hẳn cũng có những phút tiếc nuối về những gì đã qua đi, những điều tác giả đã tiếc nuối trong khổ thơ này đó là những gì đã qua mà tác giả không làm được hình ảnh của những kí ức tuổi thơ đã vang vọng trong tâm hồn của người một cách mạnh mẽ nó đang cuốn hút và tạo nên nhiều khoảng không gian riêng và bao trùm sâu lắng lên tâm hồn của người.

    Những kí ức đó tác giả đang tiếc nuối vì chưa có cơ hội báo đáp công ơn nuôi dưỡng của bà, hình ảnh đó thể hiện những nhớ thương, khi giờ đây bà chỉ còn là nấm mồ tác giả đau xót và xám hối về lương tâm của mình, tác giả muốn nhắn nhủ chúng ta hãy sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc ở phút giây hiện tại và sống với hiện thực và đó là những điều mà khi qua đi chúng ta không thấy tiếc nuối nữa.

    Tình bà cháu đã thể hiện sâu sắc trong tác phẩm này đó là những lời ngọt ngào và sâu lắng từ trong trái tim của tác giả.

Phân tích bài thơ Đò Lèn - mẫu 3

Bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy là một tác phẩm chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc và chân thành về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình yêu thương và lòng kính trọng đối với bà. Qua những hình ảnh tuổi thơ và những mất mát đau thương trong chiến tranh, Nguyễn Duy khắc họa một bức tranh tươi đẹp về quê hương và những hy sinh của những người thân yêu, đồng thời gửi gắm thông điệp về sự tiếc nuối và hối hận khi không thể kịp thời quan tâm đến những người đã khuất. Bài thơ là một lời nhắc nhở về sự mong manh của thời gian và tầm quan trọng của tình thân trong cuộc sống.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Duy khắc họa những kỷ niệm đẹp về tuổi thơ, gắn liền với bà, với những hoạt động sinh hoạt bình dị ở quê nhà: 

"Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

Níu váy bà đi chợ Bình Lâm"

 Những câu thơ giản dị này mang đến một không gian tuổi thơ ấm áp, với những trò nghịch ngợm của đứa trẻ và những hoạt động quen thuộc của bà. Cảnh cống Na, chợ Bình Lâm, hay những hành động như níu váy bà đi chợ, câu cá ở cống Na là những hình ảnh rất gần gũi với người dân quê, thể hiện sự gắn bó giữa tác giả và bà, giữa con cái với người lớn trong gia đình.

Tiếp theo, tác giả mô tả những trò chơi nghịch ngợm của mình, như

“Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

 Đây là những kỷ niệm rất đỗi hồn nhiên của tuổi thơ, với sự tinh nghịch và đôi khi là sự bất cẩn của một đứa trẻ. Những hình ảnh này làm nổi bật một phần tình yêu thương, sự ngây thơ của tuổi nhỏ khi vẫn chưa nhận thức hết được những vất vả, gian khó mà bà phải chịu đựng.

Tiếp theo, tác giả đưa người đọc vào cuộc sống của bà, với những công việc nặng nhọc để mưu sinh: 

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

 Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

 Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

 Bài thơ đã khắc họa cuộc sống vất vả của bà, một người phụ nữ tần tảo, lam lũ, ngày đêm không ngừng làm việc để lo cho gia đình. Những công việc như mò cua xúc tép, gánh chè, bán cháo là những công việc vất vả, không ngừng nghỉ, nhưng bà vẫn miệt mài chịu đựng, chẳng có lời than vãn. Dù vậy, trong mắt đứa trẻ, những cực nhọc ấy dường như chưa bao giờ được nhận thức đầy đủ.

Hình ảnh "thập thững những đêm hàn" nói lên sự khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống của bà, nhất là trong thời gian chiến tranh, khi mọi thứ trở nên khắc nghiệt và thiếu thốn hơn bao giờ hết. Bà là một hình mẫu điển hình cho sự chịu đựng, hy sinh trong thầm lặng, là người gánh vác tất cả những lo toan, vất vả trong gia đình.

Bài thơ chuyển sang một giai đoạn đau thương khi chiến tranh đến, làm thay đổi tất cả. Nguyễn Duy viết: 

“Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất

Đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

 Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!”

 Những câu thơ này phản ánh sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Ngôi nhà, đền Sòng, chùa chiền – những biểu tượng thiêng liêng của quê hương đều bị phá hủy trong cơn mưa bom đạn. Những điều thiêng liêng bỗng chốc biến mất, thay vào đó là một cảnh tượng đầy đau thương, khi bà phải đi bán trứng ở ga Lèn, kiếm sống qua ngày trong sự hoang tàn của chiến tranh.

Đây không chỉ là nỗi đau của cá nhân bà mà còn là nỗi đau chung của biết bao gia đình Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh. Mất mát lớn lao ấy khiến mọi thứ thân thuộc bỗng trở thành những ký ức đau buồn.

Phần cuối bài thơ là sự tiếc nuối, hối hận của tác giả khi không thể kịp thời thể hiện tình cảm và chăm sóc bà trong những năm tháng cuối đời: 

“Tôi đi lính lâu không về quê ngoại

Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

Khi tôi biết thương bà thì đã muộn

Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

 Câu thơ này thể hiện sự muộn màng của tình cảm khi tác giả nhận ra tình yêu thương dành cho bà nhưng lại không kịp thể hiện. "Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi" là hình ảnh của một dòng sông vĩnh cửu, nhưng cuộc đời con người lại không dài lâu, và khi tác giả kịp nhận ra sự quan trọng của bà thì bà đã ra đi, chỉ còn lại một nấm cỏ trong nghĩa trang. Đây là nỗi đau tột cùng của tác giả khi không thể kịp thời đáp lại những hy sinh mà bà đã dành cho mình.

Cuối cùng, bài thơ là một lời tri ân sâu sắc của tác giả đối với bà – người đã dành cả đời để chăm sóc, nuôi dưỡng, và hy sinh cho gia đình. Nguyễn Duy không chỉ nhớ về bà, mà còn khắc ghi trong lòng những vất vả, hi sinh của bà trong cuộc sống đầy khó khăn. Qua đó, tác giả muốn nhắc nhở chúng ta về sự quý trọng, tình yêu thương dành cho gia đình, nhất là những người thân yêu đã khuất, bởi thời gian là thứ không thể lấy lại được.

Bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy là một tác phẩm đầy xúc động về tình yêu thương gia đình, sự hy sinh thầm lặng của bà và những mất mát đau thương do chiến tranh gây ra. Qua những hình ảnh tuổi thơ, những công việc vất vả của bà, và những sự kiện đau buồn trong chiến tranh, bài thơ không chỉ khắc họa một người bà tần tảo mà còn thể hiện được sự tiếc nuối của tác giả khi không thể kịp thời chăm sóc bà. Bài thơ là một bài học về sự trân trọng gia đình và những người thân yêu trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Đò Lèn - mẫu 4

Bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy là một tác phẩm nổi bật với những cảm xúc sâu lắng, mang đậm tính tự sự và hoài niệm. Tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh một miền quê đầy kỷ niệm gắn liền với tuổi thơ và tình bà cháu, đồng thời lồng ghép những biến động lịch sử, những mất mát, khổ đau trong chiến tranh. Qua bài thơ, Nguyễn Duy gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về quá khứ và về những mối quan hệ gia đình, trong đó, nỗi tiếc nuối về người bà là một cảm xúc chủ đạo, tạo nên chiều sâu cho toàn bộ tác phẩm.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Duy đã đưa người đọc về với những hình ảnh gần gũi, thân thuộc của một miền quê Việt Nam trong ký ức tuổi thơ.

 "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

Níu váy bà đi chợ Bình Lâm

Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần."

 Những hình ảnh này không chỉ gợi lên một không gian quê hương yên bình, mà còn thể hiện sự ngây thơ, trong sáng của tuổi thơ, gắn liền với những trò chơi hồn nhiên của trẻ nhỏ. Cống Na, chợ Bình Lâm, tượng Phật hay chùa Trần – tất cả đều là những địa danh quen thuộc trong ký ức tác giả, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, nơi có bóng dáng của bà yêu thương, là người chăm sóc, dìu dắt đứa cháu trên từng bước đường đời.

Hình ảnh "níu váy bà đi chợ" gợi lên một mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa người cháu và người bà. Bà là người dạy dỗ, bảo vệ đứa cháu bé bỏng trong suốt những năm tháng đầu đời, đồng thời cũng là hình mẫu của sự hy sinh, vất vả để lo cho gia đình.

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở những hình ảnh tuổi thơ gắn liền với bà và những trò chơi giản dị, Nguyễn Duy còn khéo léo lồng ghép vào bài thơ những yếu tố tâm linh, gợi lên sự thiêng liêng của đạo Phật trong đời sống người dân quê.

 "Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

Chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng." 

Ở đây, tác giả không chỉ nhớ về những lễ hội dân gian mà còn cảm nhận được sự hòa quyện giữa tín ngưỡng tâm linh và đời sống thường nhật của người dân quê. Những lễ đền, những điệu hát văn, mùi huệ trắng hay khói trầm không chỉ là biểu hiện của tín ngưỡng, mà còn là phần không thể thiếu trong ký ức của tác giả về bà, về một miền quê nghèo nhưng đầy sự yên bình và thánh thiện.

Nhưng, bài thơ không chỉ là những kỷ niệm vui vẻ, êm đềm. Tác giả cũng khắc họa một hình ảnh khác của bà – một người phụ nữ tần tảo, vất vả, làm lụng không ngừng nghỉ để nuôi dưỡng gia đình.

"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

 Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

 Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

 Quán cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn." 

Những công việc như mò cua, xúc tép, gánh chè xanh hay bán cháo đều là công việc cực nhọc của người bà, thể hiện sự gian truân, cơ cực của những người phụ nữ nghèo trong xã hội xưa. Tuy nhiên, qua đây, Nguyễn Duy cũng muốn nói lên sự hy sinh thầm lặng của những người bà, những người phụ nữ đã hết lòng lo lắng cho gia đình, mà không được người cháu nhỏ nhận ra hết được.

Đặc biệt, bài thơ còn phản ánh sự thay đổi sâu sắc của quê hương trong bối cảnh chiến tranh.

"Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất

 Đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền,

 Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

 Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!" 

Hình ảnh "bom Mỹ giội" và sự tàn phá của chiến tranh khiến mọi thứ bị xóa nhòa. Những đền chùa linh thiêng, những giá trị tâm linh mà trước đây người dân vẫn tôn thờ cũng không còn nguyên vẹn. Thậm chí, bà cũng phải thay đổi cuộc sống, từ một người phụ nữ tần tảo ở quê, bà phải ra ngoài kiếm sống, bán trứng ở ga Lèn để mưu sinh. Điều này không chỉ phản ánh sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh mà còn thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong cuộc sống của những người dân bình dị, vốn sống trong sự nghèo khó, nay lại phải đối mặt với cảnh mất mát, khổ đau.

Cuối cùng, bài thơ là một nỗi tiếc nuối sâu sắc của tác giả khi không kịp thể hiện tình cảm và sự biết ơn đối với bà khi bà còn sống. "Tôi đi lính lâu không về quê ngoại, dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi, khi tôi biết thương bà thì đã muộn, bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!" 

Những dòng thơ này thể hiện nỗi ân hận và sự mất mát khi người cháu đã không kịp nhận ra giá trị của bà khi bà còn sống. Dòng sông quê vẫn ở đó, nhưng người bà yêu thương đã ra đi mãi mãi. Hình ảnh "nấm cỏ" là một biểu tượng sâu sắc cho sự mất mát, cho sự vô tình của người cháu khi không kịp nói lời yêu thương trước khi bà ra đi.

“Đò Lèn” là bài thơ chứa đựng nhiều lớp ý nghĩa. Nó không chỉ là một câu chuyện về kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với bà và quê hương mà còn là sự hoài niệm về những giá trị nhân văn, về tình cảm gia đình, sự hy sinh của những người phụ nữ nghèo. Qua bài thơ, Nguyễn Duy cũng muốn nhắc nhở chúng ta về sự trân trọng những giá trị hiện tại, về tình yêu thương gia đình và những gì đang có trong cuộc sống. Bài thơ mang một thông điệp sâu sắc về sự tiếc nuối khi không kịp hiểu và đền đáp công lao của những người thân yêu khi họ còn sống.

Tác phẩm của Nguyễn Duy không chỉ là sự phản ánh về những mất mát trong chiến tranh, mà còn là lời nhắc nhở về tình cảm gia đình, về sự quý trọng những người thân yêu trong cuộc sống. Bài thơ là một thông điệp về sự tỉnh thức, về tình cảm chân thành và sự trân trọng những điều giản dị trong cuộc sống hàng ngày.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

do-len.jsp

Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học