10+ Bức tranh phố huyện về đêm (điểm cao)
Tổng hợp các bài văn mẫu Bức tranh phố huyện về đêm điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Bức tranh phố huyện về đêm
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 1)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 2)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 3)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 4)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 5)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 6)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 7)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 8)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 9)
- Bức tranh phố huyện về đêm (mẫu 10)
10+ Bức tranh phố huyện về đêm (điểm cao)
Dàn ý Bức tranh phố huyện về đêm
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Thạch Lam có giọng văn trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Khuất lấp sau những trang văn của ông là tấm lòng trắc ẩn đối với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Trong đó, "Hai Đứa Trẻ" là tác phẩm nổi tiếng của Thạch Lam.
- Giới thiệu vấn đề cần cảm nhận: bức tranh phố huyện lúc về đêm.
2. Thân bài:
- Khung cảnh của bức tranh thiên nhiên phố huyện mang những vẻ đẹp mộc mạc và giản dị, nhưng lại mang đến nhiều ý nghĩa cho toàn bộ tác phẩm.
- Bức tranh phố huyện nghèo đã tái hiện thành công hiện thực xã hội nghĩa lúc bấy giờ, làm cho người đọc như thấy được khung cảnh thực tế ngay trước mắt.
- Trước khung cảnh của tiêu điều của phố huyện, không gian mở ra những hình ảnh xa xăm trái ngược với sự huyên náo đáng lẽ phải có của phố huyện.
- Thời gian của toàn bộ khung cảnh là lúc về đêm, khiến cho không gian trở nên mù tối, con người như hòa mình với màn đêm và sự tĩnh mịch của không gian.
- Cảnh vật xơ xác, tiêu điều của con người, từ những rác rưởi, vỏ thị đến những thứ nhặt nhạnh ngoài đồng của những đứa trẻ nghèo khổ.
- Bức tranh thiên nhiên và con người nơi phố huyện gợi lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là sự ảm đạm trong cảm nhận, nhưng vẫn mang một mong ước cháy bỏng về cuộc sống mới.
3. Kết bài
- Khái quát vấn đề và nêu lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 1
Thạch Lam là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam trước năm 1945. Tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực, thấm đượm lòng nhân ái và chan chứa niềm xót thương những con người nhỏ bé. Văn Thạch Lam vì thế giống như một thứ hương hoàng lan được chưng cất từ những nỗi đời. "Hai đứa trẻ" là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông, được rút từ tập "Nắng trong vườn". Truyện ít sự việc, ít biến cố, chỉ chủ yếu xoay quanh việc hai đứa trẻ đợi tàu diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn từ lúc chiều tàn đến đêm khuya của một ngày mùa hạ. Nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn bởi những trang văn giàu cảm xúc, miêu tả tinh tế những biến đổi tinh vi của cảnh và những xao xuyến mơ hồ của lòng người. Nổi bật trong truyện ngắn là khung cảnh bức tranh phố huyện lúc về đêm được hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của tác giả.
Trên nền tác phẩm là một phiên chợ tàn: "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn sót lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá..."(Trích: "Hai đứa trẻ"). Thạch Lam tả cảnh chợ quê dịp chính phiên nhưng không thấy vẻ sầm uất, sôi động, mà lại làm nổi bật sự lèo tèo, vắng vẻ và ế ấm. Thế rồi, theo bước chuyển nhẹ nhàng của thời gian, phố huyện dần chuyển vào đêm. Trước hết là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối.
Bất cứ ai từng đọc truyện Thạch Lam, đều không khỏi ấn tượng bởi những trang viết về bóng tối. Nhưng có lẽ chỉ khi đến với "Hai đứa trẻ", bóng tối mới hiện ra với đủ hình hài, cung bậc của nó. Từ ấn tượng ban đầu dịu nhẹ, êm mềm: "Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ âm như nhung và thoảng qua gió mát", bóng tối từng bước chiếm lĩnh không gian: "Đường phố và các ngõ con dần dần chia đầy bóng tối", rồi bao trùm tất cả, mênh mông, dày đặc: "Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Phố huyện nhỏ như là vương quốc của bóng tối, đến cả tiếng trống cầm canh cũng không xuyên qua được màn đêm đặc quánh, "chỉ tung lên một tiếng khó khăn rồi chìm ngay vào bóng tối".
Đối lập với bóng tối là ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt, mong manh. Ánh sáng của thiên nhiên vũ trụ với "ngàn sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vật sáng xanh của những con đom đóm." Ánh sáng thiên nhiên đẹp đã nhưng xa xôi, khó nắm bắt khiến hai đứa trẻ mỏi trí nghĩ. Chúng tìm đến nguồn sáng thân thiết hơn của cuộc sống con người trên mặt đất. Đó là "những khe sáng từ vài cửa hàng còn thức"; là "quầng sáng thân mật từ ngọn đèn trên chống hàng chị Tí"; là "những hột sáng nhỏ, thưa thớt lọt qua phên nứa từ ngọn đèn trong cửa hàng của chị em Liên"; "là chấm lửa nhỏ, vàng, lơ lửng đi trong đêm của gánh phở bác Siêu." Ánh sáng nhỏ nhoi không đủ sức xua tan bóng tối mà chỉ khiến đêm tối đen hơn. Ánh sáng yếu ớt không đủ thắp sáng cuộc đời mà biến mỗi con người thành chiếc bóng đổ dài xuống mặt đất. Ánh sáng và bóng tối được Thạch Lam miêu tả trong sự tương quan đối lập. Tương quan ấy mang ý nghĩa biểu tượng. Bóng tối đặc quánh của không gian biểu tượng cho sự tối tăm vô tận của xã hội cũ. Còn ánh sáng của những ngọn đèn hay bếp lửa chính là sự sống leo lét, mù tối của những kiếp người nhỏ bé vô danh.
Trong bóng tối ngập tràn, tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống của cư dân phố huyện vẫn diễn ra không chỉ nghèo khổ mà còn quẩn quanh, bế tắc vô cùng. Điển hình cho kiếp sống lay lắt của phố huyện này trước hết phải kể đến mẹ con chị Tí. Ban ngày chị lặn lội mò cua bắt tép, đến đêm lại lầm lũi dọn hàng nước nơi góc phố huyện nghèo. Gánh hàng của chị chỉ có lèo tèo vài thứ đồ lặt vặt, sơ sài. Tất cả cái cửa hàng được hai mẹ con dọn ra mà vẫn nhẹ tênh tênh. Khách hàng của chị toàn những người dưới đáy xã hội, làm thuê, làm mướn hoặc đi ở. Dẫu cho chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào hai mẹ con vẫn dọn hàng từ chập tối tới đêm khuya. Hình ảnh chị Tí phe phẩy cành chuối khô, đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, mòn mỏi chờ mong những khách hàng quen trong vô vọng đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn không sao tả xiết. Mẹ con chị Ti đang sống ở đó ư? Có lẽ không phải, đó đâu phải là sống mà chỉ là cầm cự với sự sống. So với mẹ con chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu có phần khá khẩm hơn nhưng lại đứng trước nguy cơ phá sản. Bởi lẽ, trong phố huyện nghèo này, phở là một món ăn quá xa xỉ. Cuộc sống của chị Tí, bác Siêu đã cơ cực là vậy, nhưng người đọc có thể thấy rõ nhất tận cùng của sự khốn khổ là gia đình bác xẩm. Gia tài chỉ vẻn vẹn một manh chiếu rách, một thau sắt trắng méo mó, cây đàn bầu cũ kĩ, và bác sống bằng nghề hát rong.
Nhìn vào cuộc sống cư dân nơi phố huyện mà độc giả cảm thấy thật xót xa. Bởi họ luôn hiện lên với những hành động quen thuộc, với những suy nghĩ mong đợi không khác mọi ngày. "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?"... "dễ họ không phải đi gọi đâu!" Chẳng cần phải nói cụ thể, rõ ràng bởi những cư dân nơi đây đã thấu hiểu mọi suy nghĩ, mong đợi của nhau. Ngày nào cũng giống ngày nào, hôm nay cũng giống hôm qua và sẽ còn tiếp diễn ở ngày mai. Nhịp sống của cư dân phố huyện lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, và tẻ nhạt. Họ không chỉ khổ nghèo về vật chất mà còn quẩn quanh, lay lắt về tinh thần. Họ không phải đang sống theo đúng nghĩa mà chỉ là cầm cự trong vô vọng. Phố huyện giống như sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi cả cảnh lẫn người.Tất cả cùng chung kiếp sống mòn. Điệu sống của cư dân phố huyện nghèo này chính là điệu sống của cả xã hội Việt Nam trước Cách mạng:
"Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại có ngần ấy chuyện" - (Huy Cận)
Dù vậy "chừng ấy người trong bóng tối vẫn mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Ước mơ thật nhỏ bé, mơ hồ, tội nghiệp. Thạch Lam đã phát hiện, trân trọng và nâng niu mọi ước mơ, hy vọng dù là nhỏ nhoi nhất của những con người phố huyện. Niềm xót thương da diết thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng cảnh, dựng người. Vì vậy có thể nói "văn Thạch Lam lúc nào cũng đằm thắm, đôn hậu, nghẹn ngào chút lệ của tình thương".
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị; ngòi bút tài hoa, tinh tế và cái nhìn trìu mến, yêu thương, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh chân thực đầy xúc động về cuộc sống đói nghèo tăm tối nơi phố huyện, tiêu biểu nhất là cảnh phố huyện vào đêm. Qua đó, người đọc đã thấy được tấm lòng nhân hậu, đầy tình yêu thương của ông. Dù ra đời cách đây nhiều năm, nhưng ngày nay đọc "Hai đứa trẻ" ta vẫn thấy đầy đủ "cái dư vị và nhã thú của một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học" (Nguyễn Tuân)
Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" đã tái hiện một cách nhẹ nhưng thấm thía niềm xót thương của Thạch Lam với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở một phố huyện nghèo. Đồng thời, truyện cũng cho thấy sự trân trọng của nhà văn với những mong ước đổi đời tuy còn mơ hồ của họ. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam với cốt truyện đơn giản, ít sự kiện mà đầy ắp tâm trạng. Với thành công của "Hai đứa trẻ", Thạch Lam xứng đáng là một nhà văn xuất sắc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 2
Có thể nói nhà văn Thạch Lam là một nhà văn trưởng thành thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có lối viết không thể nhầm lẫn với các nhà văn khác. Bài viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, u sầu và bân khuâng. Đó là những lời nói như lời thì thầm của tình yêu nhưng lại có sức mạnh ám ảnh người đọc. Những câu chuyện tác giả kể thường không có cốt truyện, mọi thứ đều được viết bằng chất liệu nhẹ nhàng và sâu sắc nhất. ‘Hai đứa trẻ’ là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này mô tả một bức tranh phố huyện nghèo nơi mọi người sống trong nghèo đói và cơ cực.
Tác giả Thạch Lam luôn cho người đọc thấy được cái hồn và sự tinh tế trong sáng tác của mình. Sự nhẹ nhàng này mang lại cho lối viết của anh một chất rất riêng. Tác phẩm ‘Hai đứa trẻ’ là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của Liên và An tại một thị trấn nông thôn nghèo, nơi họ phải làm những công việc nhàm chán hàng ngày. Ngoài ra, thông qua hai nhân vật này, tác giả muốn truyền tải nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống và những khó khăn mà con người đã trải qua.
Chất liệu nền của truyện là khung cảnh những con phố của khu dân cư nghèo luôn thấp thoáng, ẩn hiện trên từng trang viết. Có lẽ bức tranh đó đã truyền cảm hứng cho Thạch Lam bộc lộ cảm xúc của mình. Và đó có phải là thị trấn thuộc huyện nghèo Cẩm Giàng – nơi anh sinh ra và lớn lên?
Những câu đầu diễn tả cảnh một xóm nghèo: ‘Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, một vang xa gọi buổi chiều…’. Trong chiều tàn tiếng trống vang lên, có lẽ cảnh vật và con người chìm vào xao lãng. Vì sao tác giả lại chọn một buổi chiều thu làm nguồn cảm hứng để vẽ nên khu phố? Bởi mùa thu luôn gợi lên những nỗi buồn, những kỉ niệm và hơn hết là những cảm xúc. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện trong công việc hàng ngày để “thắp đèn” và “đóng cửa hàng” nhìn chuyến tàu về Hà Nội lóe lên rực rỡ rồi lại chìm vào tuyệt vọng, cảm giác hụt hẫng.
Tác giả phác họa chi tiết cảnh quan thị trấn của huyện vào buổi chiều muộn. Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Mọi người rời đi và tiếng ồn ào biến mất. Trên sàn chỉ có rác, vỏ bưởi, vỏ thịt, lá nhãn và bã mía. Một mùi ẩm ướt bốc lên, trộn lẫn với cái nóng ban ngày và mùi cát bụi quen thuộc khiến chị em Liên tin rằng đó là mùi của đất, mùi độc nhất của khu xóm này. Một vài người bán hàng về muộn đang sắp xếp hàng hóa, dựng cột và đứng xung quanh trò chuyện vài câu. Đây là khung cảnh một xóm nghèo cuối ngày héo úa, héo mòn, hoang tàn hiện ra trước mắt người đọc. Có lẽ đó là thực tế ở miền Bắc nước ta lúc bấy giờ. Mọi thứ dường như không chắc chắn, không được nhấn mạnh, không hấp dẫn và thiếu sức sống. Mọi thứ đều đơn giản và quen thuộc, nhưng có điều gì đó nghèo nàn trong đó.
Câu nói êm dịu, nhẹ nhàng miêu tả một nơi vắng vẻ, yên tĩnh trên con phố nghèo. Bóng của những đứa trẻ tội nghiệp hiện lên trên nền tối này. Ở rìa chợ, một vài đứa trẻ tội nghiệp đang cúi xuống đất tìm kiếm. Chúng thu nhặt những dải tre, những thanh tre, bất cứ thứ gì chúng có thể sử dụng. Liên rất đau lòng nhưng cô không có tiền để cho chúng. Một bức tranh đen tối hơn hiện ra, khi sự nghèo đói, khốn khổ của mảnh đất dường như tăng gấp đôi. Qua đó, quý đọc giả nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của Liên, cao cả và thánh thiện.
Còn rất nhiều số phận khác trong bức tranh làng quê nghèo này, tất cả đều dẫn đến sự hỗn loạn ở phố huyện vào buổi chiều. Đó là hình ảnh Tí và mẹ đang dọn đồ đạc, dọn hàng nhưng ‘Không kiếm được bao nhiêu’. Hay là hình ảnh Liên và hai chị em sau khi chuyển đến con phố nghèo này bán hàng cho mẹ trên tấm bảng bần phủ báo trong một sạp thuê nhỏ. Những con người thầm lặng, những con người cần cù, lặng lẽ nhìn cảnh nghèo đói đang diễn ra trước mắt mà không thể làm gì được.
Trong số những người nghèo khó về vật chất còn có hình ảnh bà già điên Chi thường xuyên mua rượu ở quán của Liên. Hình ảnh bà lão Thi ‘Ngửa cổ uống một ngụm, dúi vào tay Liên 3 đồng tiền rồi loạng choạng đi’ tạo cho người đọc cảm giác buồn cho một cuộc đời lang thang không đích đến.
Ở thị trấn nông thôn này, mọi người dường như đang chờ chuyến tàu đến từ Hà Nội, điều này càng làm tăng thêm sự ồn ào, hối hả. Chuyến tàu hỏa có thể có ý nghĩa to lớn đối với người dân vùng đất này. Bởi vì ‘con tàu dường như đã đưa một thế giới khác.’’ Đây có thể là thế giới nơi hai chị em An và Liên từng thịnh vượng và sống một cuộc sống giàu có và bình yên. Chuyến tàu có lẽ là một giấc mơ, một khát khao mang lại ánh sáng cho người dân khu phố nghèo này.
Tác phẩm ‘Hai đứa trẻ’ là một câu chuyện êm đềm, không có những cảnh kịch tính nhưng người đọc có thể bị ám ảnh bởi cuộc sống ở một thời đất nước còn đầy bom đạn và ở một đất nước nghèo khó.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 3
Nhà văn Thạch Lam là một trong những tác giả chính của Tự Lực Văn Đoàn. Nhiều tác phẩm của ông rất trong sáng, nhẹ nhàng nhưng lại khắc họa những cảm xúc rất sâu sắc. Đằng sau những trang văn ấy là lòng trắc ẩn và lòng nhân ái đối với những thành phần nghèo khổ hơn trong xã hội. Truyện ngắn ‘Hai đứa trẻ’ là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Ghi lại những khoảnh khắc cuối cùng trong ngày, tác giả đã vẽ nên cuộc sống đen tối nhưng đầy mong ước về tương lai của người dân nơi đây. Thạch Lam đã chọn thời điểm mặt trời lặn, khi vạn vật bắt đầu chuẩn bị bước vào trạng thái nghỉ ngơi. Bằng ngòi bút tinh tế và nhạy bén của mình, ông không chỉ ghi lại tinh thần cuộc sống con người mà còn cả những hình ảnh của thiên nhiên. Thông qua hai bức tranh này, quan điểm, cảm xúc của tác giả về hiện thực cuộc sống được thể hiện.
Cảnh vật mộng mơ mà buồn bã, âm thanh còn lại chỉ là ‘tiếng trống mùa thu trong căn chòi thị trấn nhỏ; Từng tiếng hát lần lượt gọi chiều, xa xa tiếng ếch kêu trong tiếng gió’. tưởng chừng như ồn ào náo nhiệt nhưng hóa ra lại buồn bã, bồn chồn và u ám. Có lẽ khoảng không gian phải rất tĩnh lặng và yên tĩnh mới có thể bắt trọn hết những âm thanh trong đó. Trong khoảng thời gian này, mặt trời cũng dần đi vào sự nghỉ ngơi: ‘Phương Tây đỏ như lửa cháy’, ‘Mây ánh hống như than sắp tàn’, màu sắc tươi sáng, màu sắc ấm áp nhưng đều gợi lên sự tàn lụi. Những hàng tre đen lại trước làng cắt ngang bầu trời trong vắt, gây nên khung cảnh u ám khi bóng tối bao trùm cảnh vật xung quanh. Những câu văn như có nhạc với nhịp điệu chậm rãi giống như một bài thơ vẽ nên khung cảnh êm đềm, êm dịu từ một bức tranh thiên nhiên. Hình ảnh hoàng hôn đẹp, mộng mơ, yên bình nhưng đầy nỗi buồn, u ám.
Ngoài tranh thiên nhiên, Thạch Lam còn đưa nét vẽ của mình vào những bức tranh miêu tả hoạt động của con người. Ông nhìn thấy một khu chợ bị bỏ hoang. Người ta thường nói rằng nếu bạn muốn biết cuộc sống ở đó như thế nào, tất cả những gì bạn phải làm là đến chợ. Và tác giả cũng làm như vậy. Khung cảnh chợ sau buổi họp trông thật cằn cỗi, hoang tàn. Sự hối hả và ồn ào đã biến mất và bây giờ chỉ còn lại sự im lặng bao trùm. Ít người bán hàng về muộn để cất đồ và trò chuyện ngắn gọn với nhau. Tất cả những gì còn lại trên sàn chợ chỉ là rác, vỏ thị và vỏ bưởi. Những đứa trẻ tội nghiệp ở rìa chợ đang cúi xuống sàn tìm nhặt những thanh tre hay thứ gì đó. Hoàn cảnh của họ thật đáng thương. Hai mẹ con Tí cùng mẹ đi bắt cua, ốc vào ban ngày và bán nước vào ban đêm. Dù làm việc chăm chỉ nhưng vẫn không đủ để nuôi sống bản thân. Còn bà cụ Thi thì luông nghiện rượu, luôn say khướt và có vẻ hay cười. Trong khi đó, chị em Liên có một cửa hàng tạp hóa nhỏ nơi họ bán những món đồ đơn giản cho khách hàng. Mặc dù An và Liên vẫn còn nhỏ nhưng đã bận rộn kiếm sống. Cuộc sống của người dân nơi đây thật nhàm chán, quẩn quanh và tượng trưng cho một cuộc sống mệt mỏi. Trong sâu thẳm, họ luôn khao khát một điều gì đó tươi đẹp hơn trong cuộc sống nhưng điều đó vẫn còn mơ hồ, chưa rõ ràng.
Tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm của nhân vật Liên nổi bật nhất trong bức tranh này. Liên nhạy cảm và nhạy bén trước sự thay đổi của thiên nhiên trong từng giây phút, cảm nhận từng chi tiết nhỏ quen thuộc của cuộc sống nơi đây: “mùi ẩm ướt bốc lên, xen lẫn mùi cát bụi quen thuộc”. quen quá…” , một mùi hương quen thuộc đã gắn liền với cuộc đời cô bé bao năm qua. ‘Liên ngồi lặng lẽ bên quả thuốc sơn đen…’ Nhìn phong cảnh, dường như sự u ám, tĩnh lặng của thiên nhiên đã thấm sâu vào tâm hồn trẻ trung, nhạy cảm của Liên. Liên cũng là một cô gái tốt bụng và giàu tình yêu thương. Có sự quan tâm dành cho hai mẹ con Tí, những câu hỏi ân cần, đầy yêu thương, nhân ái và quan tâm đến hoàn cảnh gia đình cô. Liên nghe tiếng cười, biết là bà cụ Thi, ‘lặng lẽ rót đầy ly rượu đưa cho bà cụ’ và ‘đứng sững nhìn theo’. Nhìn hình ảnh những đữa trẻ nghèo đi nhặt rác, cô bé thấy thương cảm nhưng không có tiền cho.
‘Bức tranh phố huyện lúc về đêm’ cho thấy chất thơ tỏa ra từ thiên nhiên, từ những cảnh vật bình dị, quen thuộc của quê hương, như tiếng trống mùa thu, tiếng ếch ngoài đồng.. Ngoài ra, chất thơ cũng được thể hiện ở ngôn từ, các câu văn đều nhịp nhàng, giàu nhịp điệu và âm nhạc: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều tĩnh lặng như một bài hát ru, tiếng ếch kêu ngoài đồng theo làn gió nhẹ’ đã tăng thêm chất trữ tình cho tác phẩm.
Bức tranh về một phố huyện lúc cuối ngày không chỉ khắc họa thiên nhiên tươi đẹp nhưng buồn bã mà còn khắc họa cuộc sống bộn bề, bần cùng, quẩn quanh của người dân nơi đây. Đằng sau những hình ảnh về thị trấn tỉnh lẻ này, bạn còn có thể thấy được tình yêu thiên nhiên, lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả – một cách tiếp cận trân trọng số phận và ước mơ đổi đời của người dân. Nghệ thuật biểu đạt độc đáo và chất trữ tình sâu sắc cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 4
Trước khi đi vào phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, các bạn giới thiệu khái quát qua về tác giả Thạch Lam.
Tác giả Thạch Lam, có tên thật là Nguyễn Tường Vinh. Ông sinh năm 1910 và mất năm 1942. Ông sinh ra trong một gia đình gia giáo, làm công chức có gốc quan lại trong giai đoạn đất nước có nhiều sa sút, thay đổi. Tuy nhiên, sau đó vì cha mất, nhà lại đông con nên gia đình Thạch Lam rơi vào cảnh khốn khó. Sau khi hết học bậc tú tài, ông bắt đầu tham gia làm báo cùng các anh trai.
Độc giả biết đến nhà văn Thạch Lam với phong cách viết thiên về tình cảm và sự lãng mạn. Qua ngòi bút của ông, người đọc cảm nhận rõ được niềm thương xót của nhà văn trước những số phận hẩm hiu, bất hạnh, nghèo khổ và đặc biệt là những người phụ nữ bị đói xử bất công trong xã hội cũ. Ngoài ra, ông cũng dành ngòi bút của mình để miêu tả lại vẻ đẹp của quê hương đất nước như trong tác phẩm Hà Nội ba sáu phố phường…
Đặc biệt, tác phẩm “Hai đứa trẻ” được Bộ Giáo dục mang vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 11. Đây là truyện ngắn rất được nhiều bạn đọc yêu thích và say mê. Ở tác phẩm, ngoài ấn tượng đến từ các nhân vật có cuộc sống hẩm hiu còn có nổi bật bởi bức tranh phố huyện về đêm rất sinh động và độc đáo. Nhờ cảnh tưởng đó mà tác phẩm đã để lại trong lòng độc giả nhiều dấu ấn sâu sắc.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn Thạch Lam đã gây ấn tượng bởi khung cảnh chiều tàn đầy vắng lặng, hắt hiu, êm ả những chứa đựng nỗi buồn man mác.
“Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”.
Độc giả có thể thấy, buồi chiều tàn nơi phố huyện hiện rõ lên qua những âm thanh, đường nét, hình ảnh vô cùng quen thuộc của một làng quê nhưng lại khơi gợi biết bao xúc cảm. Một bức họa làng quê được khắc hoạt một cách sống độngv à chân thực như một thước phim quay chậm đang diễn ra trước mắt độc giả. Nhà văn Thạch Lam mở đầu tác phẩm bằng thời gian ngày tàn. Đó là khoảng thời gian để kết thúc một ngày và bắt đầu mở ra một màn đêm với nhiều nỗi niềm, nỗi buồn. Kết hợp với thời gian là không gian êm đềm, thanh tĩnh của buổi hoàng hôn đang dần chuyển về đêm. Lúc này màu sắc của bức tranh phố huyện như dần nhòe đi, còn “bóng tối” như một điều gì đó ghê sợ đã bắt đầu hoạt động và bắt đầu xâm nhập, xâm chiếm bao trùm lên mọi vật. Bởi thế “dãy tre làng đen lại”, “cửa hàng hơi tối, muỗi bắt đầu vo ve”…
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn có chút ánh sáng xuất hiện, nhưng nó vô cùng ít ỏi. Nó chỉ như những “hộ sáng” li ti, không đủ sức mạnh để xua đi bóng tôi đang bao trùm. Điều đó càng khiến cho không gian phố huyện lúc sắp về đêm trở nên chợp chờn, mờ ảo, mênh mông…
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, độc giả không thể không nói đến thanh âm vang lên ở phố huyện lúc chiều tàn. Đó là thứ âm thanh vang vọng, cố thu nhỏ lại “tiếng trống thu không từng tiếng một vang xa”. Thể hiện một khung cảnh buồn bã, thưa thớt và chậm rãi. Bên cạnh đó là âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái, tiếng côn trùng kêu ran”. Đó là thứ thanh âm náo động, rộn ràng nhưng lại vang vọng, khơi gợi sự hoang vắng, heo hút. Trong khi đó “tiếng muỗi vo ve”, “chõng nan cót két” lại mang tới một bức tranh tăm tối và một cuộc sống thật tù đọng, bần cùng và nghèo nàn. Có thể nói, những thanh âm ấy không làm cho bức tranh trở nên nhộn nhịp tươi đẹp hơn mà càng nhấn mạnh hơn sự buồn tẻ, lụi tàn, trống vắng của phố huyện, và càng khiến con người trở nên buồn xót. Qua đây, độc giả có thể thấy, trước khi phố huyện vào đêm, thì phố huyện đã trải qua một khung cảnh buổi chiều tàn thật ảm đạm. Mặc dù chỉ trong một đoạn văn mở đầu ngắn ngủi nhưng nhà văn đã sử dụng tới tận 5 từ “chiều”, 2 từ “tối”, 2 từ “tàn”, 2 từ “buồn”. Có thể nói, mỗi câu văn, mỗi từ đều khơi gợi trong lòng độc giả một xúc cảm buồn mênh mang khó quên. Khung cảnh chiều tàn nơi phố huyện trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam khiến chúng ta chợt nhớ tới câu ca cổ của thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa vắng trống dồn”. Những hình ảnh trong văn Thạch Lam cũng chính là bức tranh đậm chất hồn làng quê ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20.
Nếu như bức tranh phố huyện khi chiều tàn đã ảm đạm bao nhiêu thì lúc về đêm càng trở buồn chán và tẻ nhạt, hẩm hiu bấy nhiêu. Không gian bức tranh về đêm của phố huyện được bao trùm bởi bóng tối, những tia sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn của gánh hàng không đủ sức để phá tan màn đêm dữ dội. Thứ ánh sáng ấy xuất hiện đi xuất hiện lại tận 7 lần trong tác phẩm. Điều đó trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm vào tâm trí của người đọc lẫn những phận người nơi phố huyện nghèo. Ánh đèn ấy như hình tượng biểu trưng cho kiếp người nơi phố huyện nghèo thu nhỏ, đó là kiếp người sống leo lắt, nhỏ nhoi lẻ loi trong bóng đêm u ám. “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây”.
Nhà văn Thạch Lam vô cùng tinh tế khi lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối. Ông càng miêu tả chi tiết sự ít ỏi yếu ớt của ánh sáng qua những hình ảnh như quầng sáng, hột sáng, khe sáng, vầng sáng… thì càng bộc lộ thấy màn đêm nơi phố huyện càng đậm đặc, u tối. Trong khi đó, nhà văn lại miêu tả thứ ánh lấp lánh lại nhanh chóng vút qua từ những toa tàu. Bởi đó là thứ ánh sáng ở nơi thế giới khác, không phải trong bức tranh của phố huyện. Bởi đó là thứ ánh sáng của những người giàu có, là cuộc sống sung túc náo nhiệt ở nơi Hà Nội huyên náo. “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Qua đây, độc giả có thể thấy, ở bức tranh phố huyện lúc về đêm ấy, thế giới của người nghèo và thế giới của người giàu không bao giờ hòa hợp. Đồng thời, qua sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng đã khơi gợi nên cho độc giả cảm nhận rõ “cuộc sống tối tăm nơi phố huyện chôn vùi những kiếp người nhỏ bé”. Bức tranh phố huyện về đêm đã cho độc giả thấy nơi đây đúng là một vùng quê nghèo đói với những phận người thật mong manh, nhỏ bé. Dường như không có thứ ánh sáng nào đủ sức xua đi sự tăm tối trong màn đêm cũng như trong chính cuộc đời của những kiếp người nơi đây.
Bức tranh phố huyện lúc về đêm còn được thể hiện qua nhịp sống tẻ nhạt, lặp đi lặp lại của những người dân nơi đây. Đó là những hoạt động quen thuộc, âm thanh quen thuộc như chị Tí dọn hàng, bác phở Siêu thổi lửa, gia đình bác xẩm với cái thau trước mặt, bà cụ Thu điên… Và bên cạnh họ là những suy nghĩ và mong ước và một cuộc sống tốt đẹp hơn như hàng ngày. Mặc dù trong thâm tâm họ, vẫn nuôi hy vọng, mơ ước về một cuộc sống tươi sáng trong tương lai nhưng vẫn không rõ ràng và vô cùng mơ hồ.
Qua quá trình phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, nhà văn Thạch Lam đã mang tới cho độc giả những xúc cảm khó quên. Bởi đó là bức tranh đã gây ra ám ảnh với độc về khung cảnh chiều tàn đầy ảm đạm, sự đối lập giữa ánh sáng nhỏ bé và màn đêm u tối của phố huyện. Đó là cũng thứ ánh sáng leo lắt như những phận người hẩm hiu nơi đây và bóng đêm bao trùm mạnh mẽ như cuộc sống tù túng, không lối thoát. Qua đây, độc giả cũng cảm nhận được niềm xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những kiếp người nghèo khổ, lẻ loi và nhỏ nhoi. Với ngòi bút hiện thực và lãng mạn, nhà văn Thạch Lam đã phác họa thành công bức tranh phố huyện thật độc đáo buồn man mác và gây nhiều xúc cảm.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 5
Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những cuộc sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những cuộc sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm.
Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 6
Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.
Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. “Hai đứa trẻ” là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. CŨng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.
Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng – nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.
Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều…”. Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là bởi mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày “thắp đèn” rồi “đóng quan” và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.
Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu”. Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.
Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng”. Một bức tranh thêm ảm đạm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên, thánh thiện và cao cả.
Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.
Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.
Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thi bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ Thi “ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi” khiến người đọc chạnh lòng về một kiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.
Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.
Chuyến tàu có lẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.
“Hai đứa trẻ” là một câu chuyện nhẹ nhàng, không có tình huống gay cấn nhưng lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 7
Thạch Lam (1910-1942) là một cây bút truyện ngắn rất tài hoa xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong văn Thạch Lam có sự kết hợp tự nhiên hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, nên văn Thạch Lam vừa nhẹ nhàng thanh thoát vừa ý vị sâu xa. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” 1938 là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Truyện ngắn thông qua cái nhìn của hai đứa trẻ nhà văn đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên và một bức tranh về đời sống của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám. Qua hai bức tranh này nhà văn đã gợi lên được nhiều ý nghĩa xã hội sâu xa.
Thạch Lam đã chọn thời gian là “giờ khắc của ngày tàn” khi tiếng trống thu không gọi buổi chiều để miêu tả những con người nhỏ bé họ dường như càng buồn bã hơn khi chiều tàn chuyển dần sang đêm tối.
Hình ảnh mặt trời lấp ló sau rặng tre những đám mây ánh hồng, dãy tre làng đen lại, đêm phố huyện với vòm trời ngàn sao lấp lánh, đom đóm nhấp nháy bóng đêm thăm thẳm dày đặc. Khi chợ tàn thì tiếng ồn cũng mất, trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi và đầy vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, sự huyên náo đông vui nhường chỗ cho sự trống vắng quạnh hiu cảnh chợ tàn gây một nỗi thấm thía. Thông thường khi muốn biết kinh tế văn hóa của một vùng quê thì người ta nhìn vào cái chợ. Ở đây Thạch Lam cũng miêu tả theo quan niệm đó. Đầu tiên ông cho người đọc hình dung về một cái chợ tàn. Điều đó gợi liên tưởng đến một vùng quê rất nghèo đói và lam lũ.
Âm thanh vang lên là tiếng trống thu, tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rụng khe khẽ đã tạo nên cái buồn man mác báo hiệu một cuộc sống không có nhiều niềm vui. Mùi vị quen thuộc của các bụi, màu móc ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu ngay ngáy đó là thứ mùi vị riêng của quê hương này, mùi vị của nghèo khổ lầm than bế tắc.
Tóm lại thiên nhiên phố huyện rất êm ả nhưng thấm đậm nỗi buồn và tình cảm yêu thương trìu mến của một nhà văn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện của hồn xưa. Nhà văn đã dùng bút pháp mượn cảnh tả tình, mượn cảnh tả người tả đời. Nhờ bút pháp này mà nhà văn đã gián tiếp dựng lên được một hình ảnh chung của bức tranh đời sống của một vùng quê nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Trong tác phẩm này ngòi bút của nhà văn tập trung đặc tả hình ảnh những cuộc đời, những con người nghèo đói, lam lũ, tối tăm và lay lắt.
Cảnh sống của con người trước hết thông qua đôi mắt của chị em Liên nhà văn đã cho xuất hiện những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom trên nền chợ tàn. Sau khi chợ tan những đứa trẻ con nhà nghèo này đã tìm đến nền chợ nhặt những thứ còn sót lại để phục vụ đời sống của chúng, nhưng vì chợ nghèo nên tàn dư của chợ chẳng có gì chúng chỉ nhặt được một vài thanh nứa, thanh tre rất ít ỏi còn sót lại trên nền chợ. Từ đó ta thấy cuộc sống của những đứa trẻ này chẳng hứa hẹn một điều gì tốt đẹp. Sự đặc tả về thân phận cuộc sống của người lao động, tác giả đã giành nhiều sự quan sát và diễn tả về mẹ con chị Tý. Chị Tý là một người nông dân suốt ngày chỉ biết “mò cua bắt tép” tối đến chị đội chõng ra dọn hàng nước bán cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng tối nào chị cũng dọn hàng để bán và hy vọng. Cảnh sống ở phố huyện đêm nào cũng thế lại xuất hiện vợ chồng bác Xẩm nghèo ngồi trên manh chiếu rách, với cái thau trắng trước mặt để đợi chờ. Bà cụ Thi khổ lúc nào cũng đi về trong bóng tối. Khá hơn là chị em Liên có quầy hàng tạp hóa nhưng mỗi ngày cũng chẳng bán được là bao cuộc đời cũng xập xệ trên chiếc võng nát.
Tất cả những cảnh đó đều là một cái chung đó là sự nghèo nàn tột bậc, tột cùng. Đó là một sự lam lũ tối tăm không có một chút lóe sáng với tương lai. Nhưng chúng ta đã biết con người là linh hồn của một vùng quê vùng đất. Miêu tả con người trong nghèo đói nhọc nhằn nhà văn đã gợi tả được những tầng lớp người dân nông thôn trước cách mạng tháng tám nghèo nàn thật đáng thương, thật đáng lưu tâm, thật đáng nặng lòng.
Để miêu tả bức tranh đời sống nghèo đói tối tăm nhà văn đã đặt trong cái nền bóng tối của trời đất. Mặc dù thiên nhiên thì muôn đời vẫn đẹp “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát” những bóng đêm đó vẫn cứ ôm xiết bao trùm những cuộc đời lam lũ. Để miêu tả bóng đêm này nhà văn đã dùng những chi tiết rất gợi khi thì những con đường về làng, những con đường ra ngã sông đều sẫm đen bóng tối, khi thì tất cả đều chìm vào bóng tối, khi thì trời tối sẫm đen. Bằng những chi tiết đó nhà văn đã cho giăng mắt bao trùm bóng tối lên phố huyện nghèo trong đêm tối, để nhấn mạnh sự nhỏ nhoi,leo lắt nhà văn có khi dùng hình ảnh những “hột sáng” từ dãy tạp hóa của chị em Liên phát ra những “khe sáng” từ những nhà hàng đối diện phát ra, “đốm lửa vàng” của ánh lửa bác Xiêu, có khi là “quần sáng nhỏ” từ ngọn đèn của chị Tý. Đặc biệt để nhấn mạnh những đốm sáng nhỏ nhoi leo lắt nhà văn đã miêu tả ngọn đèn của chị tý sáng một vùng đất nhỏ đến bảy lần. Đó là một hình ảnh thể hiện sự ám ảnh về sự nhỏ nhoi, lẻ loi của ánh sáng trong đêm tối mong manh vô tận, miêu tả bóng tối bao trùm ánh sáng, ánh sáng nhỏ nhoi lay lắt trong bóng tối, nhà văn nhằm diễn đạt một bức tranh đời sống tăm tối.
Cảnh sống của con người trong “Hai đứa trẻ” không chỉ nghèo nàn tối tăm mà còn đơn điệu nhàm chán. Ngày nào cũng thế khi chợ tàn lũ trẻ nhà nghèo lại ra chợ tìm kiếm nhặt nhạnh những rát rưởi tàn dư của chợ còn sót lại. Ngày nào cũng thế chị Tý, bác phở Siêu, bác Xẩm nghèo rồi chị em Liên vẫn cứ dọn hàng và chờ đợi, khách hàng của họ không ai khác ngoài người nhà của cụ Thừa, cụ Lục đi gọi người đánh tổ tôm tạt qua. Rồi mấy bác phu xe ghé qua uống nước, cứ thế ngày này qua ngày khác nhịp điệu cuộc sống cứ diễn ra đều đặn. Từ người bán hàng đến khách hàng đều là những ông chủ lớn nhưng vẫn nghèo sát mặt đất. Cảnh sống ấy đúng như nhà thơ Huy Cận viết:
"Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu tới hay lui cũng từng ấy mặt người”.
Trong cảnh sống đó nhà văn Thạch Lam có miêu tả cảnh chị em Liên thức đợi chuyến tàu. Đó là thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân của những con người này muốn khát khao vươn ra ánh sáng, nhưng ánh sáng cuộc đời họ phía trước cũng giống ánh sáng đoàn tàu lửa thoáng qua chốc lát rồi lại chìm ngay vào bóng tối. Hình ảnh cuối tác phẩm, ngọn đèn con của chị Tý lại chập chờn trong giấc ngủ của Liên điều đó nhà văn cũng nhằm khẳng định những cuộc đời nơi phố huyện vẫn là những cuộc đời leo lắt, tất cả đều chìm trong bóng tịt mịt.
Thông qua câu chuyện của hai đứa trẻ con nhà nghèo nhìn phố huyện trong buổi chiều xuống và đêm đến, nhà văn đã lặng lẽ đưa ra một không gian sống của một vùng quê phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Từ không gian sống này nhà văn đã gợi cho người đọc liên tưởng đến cảnh sống nghèo đói quẩn quanh, bế tắc của những người dân quê “trong cái giời tối đất của đồng lúa ngày xưa”. Qua cảnh sống này nhà văn Thạch Lam gián tiếp lên án giai cấp thống trị thời bấy giờ đã vô trách nhiệm với người dân quê và nhà văn cũng thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc đối với họ.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 8
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một truyện ngắn “trữ tình đượm buồn”. Tác phẩm chứa những nỗi đau hiện thực và vẻ đẹp khuất lấp tựa thứ hương hoàng lan chưng cất từ những nỗi đời. Đặc biệt, bức tranh phố huyện nghèo được khắc họa trong tác phẩm thể hiện rất rõ phong cách, tài năng cũng như bức thông điệp nhân văn mà tác giả muốn truyền tải.
Thạch Lam mang giọng văn đa dạng, kết hợp giữa chất lãng mạn và hiện thực tinh tế, ý văn giàu cảm xúc. Nội dung văn Thạch Lam thể hiện hiện thực xơ xác, buồn khổ nhưng đằm thắm, đầy tính nhân văn, nhân ái. Do vậy truyện ngắn của nhà văn có tính chất gần như không có cốt truyện. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” thể hiện bức tranh thiên nhiên phố huyện nghèo mà ở đó cả thiên nhiên và con người vừa nghèo khổ, xơ xác cũng vừa đẹp đẽ, thơ mộng, đáng yêu, đáng quý.
Bức tranh thiên nhiên phố huyện bắt đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi canh huyện nhỏ từng tiếng một vang ra gọi buổi chiều”. Tiếng trống gợi một khoảng không gian mênh mông của đất trời vừa đẹp vừa buồn. Hòa lẫn với đó là âm thanh vang vọng rời rạc từ to đến nhỏ của “ếch nhái ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Thiên nhiên được phát ra với những nét bút có hồn gợi lên một sự tàn lụi mơ hồ khiến lòng người thổn thức. Có buổi chiều nào “êm ả như ru” trong cái nhìn của Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng? Thạch Lam đã phác họa một bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện nghèo nhuộm màu buồn tàn lụi nhưng vẫn toát lên vẻ thơ mộng trữ tình.
Song, cái áo khoác thơ mộng ấy không thể che lấp đi cảnh tàn tạ của những kiếp người tàn nơi phố huyện nghèo. Những kiếp người thấp thoáng trong phong cảnh chợ vãn hay đêm tối thật đáng thương. Khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất” tất cả những gì còn lại chỉ là lèo tèo vài ba người thu dọn hàng, bóng vài đứa trẻ đi thu lượm những thứ tàn trong một đống tàn. Cái mùi ẩm ẩm bốc lên lẫn với mùi cát bụi quen thuộc của mảnh đất bình dị đặc trưng nơi phố huyện ấy lần lượt hiện lên dưới ngòi bút tài tình của Thạch Lam. Những kiếp người lam lũ, mòn mỏi, héo hắt mong đợi một cái gì mơ hồ xa xôi hiện ra từ trong bóng tối. Đó là những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, cụ Thi điên… Phố huyện nghèo như một cái xác không hồn và “chừng ấy con người” như những cái bóng dật dờ trong đêm. Hai chị em Liên được đặt bên cạnh một cái chõng xập xệ, vài phong thuốc lào, bánh xà phòng; mẹ con chị Tí với tài sản cũng chỉ là một cái chõng tre đội đầu; quán hàng ế bác phở Siêu, nhà bác Xẩm bên manh chiếu rách hay bà cụ Thi điên… đều là tập hợp những nạn nhân hiện thân đầy đủ nhất của kiếp người tàn nơi phố huyện.
Trong bức tranh phố huyện, Thạch Lam đã rất tinh tế khi vẽ lên một bức tranh có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để truyền tải thông điệp về cuộc sống. Bóng tối “ngập dần đầy” của một đêm mùa hạ “êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Bóng tối giống như một cái chảo đen khổng lồ úp lên phố huyện nghèo. “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các con ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn”. Ánh sáng thì ít ỏi, thưa thớt bị bóng tối lấn át. Ánh sáng từ xa xôi từ vũ trụ “hàng ngàn ngôi sao lấp lánh”, “phương tây đỏ rực” đến ánh sáng con người là khe sáng hắt ra từ phên nứa, đèn hoa kỳ leo lét hay một thứ ánh sáng nhân tạo rực rỡ hơn đó từ chuyến tàu đêm. Thạch Lam đã để tất cả con người nơi phố huyện mong chờ ánh sáng từ chuyến tàu đêm để ca ngợi phẩm chất căn bản của con người đó là khát vọng hạnh phúc. Chuyến tàu mang tuổi thơ trong quá khứ đã mất đi của Liên và khiến chị như đang được sống êm đềm. Ngọn lửa xanh biếc, ánh sáng từ toa tàu, tiếng còi xe, tiếng bánh xe… tất cả diễn ra trong giây lát rồi vụt tắt nhưng ít nhiều đã cho thấy con người luôn cố gắng hướng ra cuộc sống vui vẻ dù trong hoàn cảnh khổ cực tới đâu.
Thông qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã thể hiện bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện nghèo buồn mà đẹp và hiện thực của con người tuy đói khổ nhưng luôn chứa ẩn chứa tâm hồn lạc quan, khát khao hạnh phúc. Tác phẩm đã làm sống lại những tình cảm nhỏ bé nhất trong lòng mỗi người đọc yêu văn Thạch Lam.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 9
Có một nhà văn đã từng khẳng định: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác.” Thật vậy, mỗi người nghệ sĩ khi đứng trên văn đàn văn học cần phải có một phong cách riêng, một “giọng nói riêng” hay một “đôi mắt” khác người thì tác phẩm của họ mới để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. “Một khi phong cách trở thành máu thịt của nhà văn sẽ tạo nên sắc điệu thẩm mĩ riêng biệt, không thể trộn lẫn với bất kỳ ai”. Và Thạch Lam đã hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình. Ở “Hai đứa trẻ”, ông tạo cho người đọc một cảm giác khác lạ, hoàn toàn không giống với những tác phẩm cùng thời ông. Đặc biệt ông phát hiện bức tranh đời sống phố huyện nghèo khi chiều buông xuống.
Đến với “Hai đứa trẻ” chắc ai cũng không khỏi tò mò tại sao một nhà văn lại có thể len lỏi vào giữa những phố huyện nghèo như vậy mà tìm hiểu cặn kẽ? Câu trả lời thật dễ dàng khi ta nhìn lại tiểu sử của ông: thuở nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại thuộc phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương... Có lẽ chính trong khoảng thời gian này đã giúp Thạch Lam thấu hiểu và đồng cảm với con người và nhịp sống nơi đây. Ở đó không chỉ là bức tranh thiên nhiên với cảnh vật u ám, tiêu điều mà còn là bức tranh cuộc sống nơi phố huyện nghèo khổ, mệt mỏi... Bên cạnh đó, in trong tập ”Nắng trong vườn”, “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm mang sự hòa quyện của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.
Trước hết là bức tranh cuộc sống phố huyện nghèo lúc chiều tà. Hình ảnh chợ chiều nghèo nàn, xơ xác “chợ họp giữa phố vãn từ lâu”. Mọi người trong phiên chợ cũng đã về hết và không còn tiếng ồn ào. Chỉ còn lại là “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Đặc biệt là mùi vị nơi đây, một mùi vị đặc trưng mà không pha lẫn được với vùng miền nào: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Hình ảnh con người cũng được phác họa nhưng nghèo khổ, thưa thớt và đơn điệu. Đó là những đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi trên mặt đất, “nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được”; đó là chị em Liên; là mẹ con chị Tí... Đặc biệt là bà cụ Thi điên nghiện rượu, tiếng cười khanh khách. Hình ảnh cụ “đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng” khiến cho ta liên tưởng đến một sự quẩn quanh và không lối thoát. Cụ Thi chính là đại diện cho một kiếp người tàn, những con người đáng thương nhất. Như vậy, bằng vài nét phác họa Thạch Lam đã cho độc giả thấy được một bức tranh đời sống phố huyện nghèo khổ, tiêu điều, mỗi người một cảnh nhưng đều giống nhau ở cái nghèo, sự mệt mỏi và buồn chán. Ngoài ra, tác giả còn thể hiện cảm xúc của mình qua tâm trạng Liên “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Đây chính là tình người, lòng trắc ẩn của một con người. Hay qua lời hỏi thăm, lo lắng của Liên với mẹ con chị Tí cho ta thấy được sự quan tâm, động viên, hỏi han của những con người cùng khổ. Thực trong mọi hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh đáng thương chúng ta cần phải quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Qua đây, tác giả cũng như đánh thức chúng ta về lòng trắc ẩn, về tâm hồn tinh tế, nhạy cảm...
Theo dòng thời gian, tiếp theo chính là bức tranh đời sống phố huyện khi đêm về. Đầu tiên là qua bút pháp tượng trưng ở cảnh vật và không gian phố huyện tác giả đã làm bật lên những kiếp người sống chìm khuất đồng thời cũng miêu tả cuộc sống con người tù đọng, tăm tối nhưng ở họ vẫn le lói những tia sáng “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Nhịp sống, cuộc sống nơi đây lúc nào cũng tẻ nhạt, đều đặn: mẹ con chị Tí ngày nào cũng dọn hàng “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”, bác Siêu gánh phở ra đầu làng rồi lại gánh về, gia đình bác Xẩm chủ yếu sống bằng sự thương hại của người đời; chị em Liên hôm nào cũng phải tính tiền hàng, ngồi chõng tre,... Cuộc sống lặp đi lặp lại thật tù túng và đơn điệu! Có thể thấy dù nghèo khó nhưng người ta vẫn lao đầu bằng những gì vốn có, chân chính nhất.
Cuối cùng chính là bức tranh phố huyện khi chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu đặc biệt được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng, theo đúng trình tự từ khi tàu sắp đến, tàu đến và cho đến khi tàu đi qua. Đoàn tàu đi qua như là hoạt động cuối cùng đêm mạnh mẽ, sôi động, phá toang đi sự tịch mịch của phố huyện. Hình ảnh này là thế giới khác hẳn thế giới ở phố huyện, giống như một con thoi xuyên thủng màn đêm, ánh sáng đoàn tàu có thể xóa đi những ánh sáng mờ ảo, lẻ loi nơi phố huyện. Âm thanh đoàn tàu mạnh mẽ đủ sức át bản hòa tấu đều đều, đơn điệu! Chị em Liên cũng vì chờ đợi chuyến tàu mà buồn ngủ nhưng vẫn gượng thức cho thấy sự mong mỏi, khát khao được chứng kiến hoạt động cuối chở đầy hy vọng ấy. Bên cạnh đó, chuyến tàu đi qua cũng là đánh thức thế giới kỷ niệm đẹp của một thời đã qua “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Chính chuyến tàu khơi gợi, dấy lên khát vọng, ước mơ về một thế giới, tương lai tốt đẹp hơn. Có thể nói, nhìn thấy đoàn tàu không chỉ thỏa mãn thị giác mà nó còn là tư tưởng của Liên, nó lấp đầy khoảng trống mênh mông trong tâm hồn chị em Liên bằng những hoài niệm và ước mơ. Chính chuyến tàu đêm này mà Liên thấy rõ hơn sự ngưng đọng, tù túng của cuộc sống đầy bóng tối nghèo nàn của cuộc đời mình và những người xung quanh. Như vậy, “Hai đứa trẻ” là bức tranh hiện thực của một thời đã qua, cuộc sống phố huyện chỉ sáng lên một khoảnh khắc. Bằng tài năng, bằng “con mắt” riêng của mình Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh cuộc sống phố huyện từ khi chiều xuống.
Qua đó, bằng việc sử dụng bút pháp lãng mạn; các hình ảnh tương phản, đối lập tác giả đã làm nổi bật cuộc sống của phố huyện. Có thể nói, trang văn của Thạch Lam rất đẹp. Cái đẹp được tỏa ra từ hình ảnh gợi hình, gợi cảm; tình người với trái tim rất đỗi nhân hậu. Ngòi bút Thạch Lam , lời văn giàu bản sắc: nhẹ nhàng, khách quan, ẩn hiện lòng thương với những con người phố huyện, ông vẫn phát hiện ra khát vọng của họ.
“Hai đứa trẻ” là kết quả của quá trình sáng tạo và chắt lọc những tinh hoa cuộc sống, những xúc cảm thẩm mỹ của Thạch Lam. Khác với các nhà văn Tự lực văn đoàn, Thạch Lam quan niệm “Đối với tôi, văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Với ông, văn chương chân chính là văn chương phục vụ con người, vì con người mà cất lên tiếng nói, văn chương “vị nhân sinh” chứ không phải văn chương “vị nghệ thuật”. Có thể nói, “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Vì vậy “nó đòi hỏi phải có phong cách tức là phải có nét gì đó mới mẻ, riêng biệt thể hiện trong tác phẩm của mình”. Và Thạch Lam đã xuất sắc khi làm điều đó. Nhà văn đã mang tiếng nói riêng của mình để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người.
Bức tranh phố huyện về đêm - mẫu 10
Đến với Thạch Lam ai cũng biết ông là một cây bút tài hoa xuất sắc của văn học Việt Nam, là nhà văn lãng mạn thuộc thành viên của nhóm "tự lực văn đoàn" nhưng văn của Thạch Lam lại nghiêng về cuộc sống cơ cực, bế tắc, vất vả của những người nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo. Vì vậy trong sáng tác của Thạch Lam xuất hiện chất hiện thực và trữ tình hòa quyện đan cài tạo nên nét đặc sắc trong cách nghệ thuật. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam đã biểu hiện được phẩm chất đó. Hiện lên trong tác phẩm là bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm trạng của con người.
Có lẽ điều mà mỗi bạn đọc khi đến với "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam phải cảm nhận được ngay đó là bức tranh thiên nhiên, cảnh hoàng hôn của thiên nhiên nơi phố huyện nghèo khi một ngày đã tàn. Bức tranh ấy có cả màu sắc, âm thanh rất đặc trưng của thôn quê Việt Nam. Bức tranh đó được tác giả đặt trong ba thời điểm :chiều tàn, buổi tối và đêm khuya. Cả ba thời điểm ấy như tàn dần đi theo thời gian và không gian.
Trước hết người đọc phải thấy được cảnh chiều tàn, cảnh chiều ấy có cả màu sắc của mặt trời "phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn". Và hình ảnh bóng tối ập đến "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời". Tất cả những thứ màu sắc ấy như báo hiệu một ngày đã hết, thời gian mà con người sống thực với bản thân mình đã đến. Bức tranh ấy có cả âm thanh, thứ âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều" thứ âm thanh ấy nghe sao mà nhẹ nhàng, chậm chạp nặng nề buồn tê cả lòng người. Tiếng thu không ấy khác chi tiếng trống trong bài thơ "Tự tình" của Hồ Xuân Hương.
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn"
Cũng là tiếng trống buồn rầu, chậm chạp đến đáng sợ ấy. Hay những thứ âm thanh như "văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió đưa vào","tiếng muỗi vo ve" đó là những âm thanh quen thuộc mà vùng quê nào cũng có. Tiếng chõng tre kêu cót két như bản nhạc buồn vang lên trong buổi chiều tàn. Đối với Liên chị làm sao quên được "mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Tất cả những thứ âm thanh, màu sắc, mùi vị ấy như hòa quyện vào nhau đưa vào lòng người đọc một vùng quê êm đềm nhẹ nhàng. Buổi chiều tàn ấy như nhường cho thời gian đêm tối tràn đến. Cảnh đêm tối ấy như gợi lên cho người đọc được sắc màu, màu của bóng tối như bao trùm lên tất cả nơi phố huyện này "tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Cái bóng tối đáng sợ ấy như ám ảnh con người nơi đây, nó thống trị tất cả từ con người đến cuộc sống. Ánh sáng không phải không có, nhưng nó nhỏ bé leo lét không đủ sức để xé tan màn đêm. Thứ ánh sáng ấy như càng làm cho bóng tối trở nên mênh mông hơn, tối tăm hơn. Đó chính là khung cảnh chung của làng quê Việt nam lúc bấy giờ. Trong màn đêm tĩnh lặng ấy người ta có thể nghe thấy cả tiếng lá bàng rơi rụng xuống vai Liên khe khẽ, từng loạt một. Tiếng động ấy không đủ sức ngân vang rồi chìm ngày vào đêm tối. Lúc đó ta mới thấy giá trị của ánh sáng, nó trở nên vô giá và rất quý báu. Cảnh đêm về lại càng làm cho không gian trở lên vắng lặng hơn. Và tất cả chỉ mong đợi chuyến tàu đêm hoạt động cuối cùng trong ngày đi qua.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy đã diễn ra hoạt động đời sống của con người. Đó là khung cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn "trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lúa úa". Đó là tất cả những gì còn lại của phiên chợ tàn, hình ảnh ấy gợi ra đó là những món quà quê rẻ tiền. Từ đó cũng đã thấy được cuộc sống nghèo nàn còn nhiều thiếu thốn của người dân nơi đây. Tác giả đã chọn thời điểm cuối ngày đó là lúc chiều tàn cho đến đêm khuya để làm nổi bật cuộc sống của con người tàn tạ, bế tắc héo úa. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh phiên chợ tàn mà không chọn hình ảnh khác? Phải chăng chỉ có phiên chợ tàn ấy mới gợi ra được cuộc sống tàn tạ bế tắc trong đêm tối không chút ánh sáng, không chút tương lai ở phía trước. Những kiếp người tàn tạ ấy đang hiện lên trong cái nhìn của Liên tại phiên chợ tàn. Phải chăng nhân vật Liên có cái nhìn tinh tế lắm? Khác với người phương Tây, người Việt Nam ta thường có tính chậm chạp, cũng như ở tác phẩm chợ đã tàn nhưng "một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa". Còn ngoài đường "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hanh bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại". Đến những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi học mà cũng phải tham gia vật lộn hy sinh vất vả để kiếm cái ăn hằng ngày cho bản thân cho gia đình. Ngay cả An với Liên dù khá giả hơn chúng cũng phải giúp mẹ trông hàng.
Kiếp người ấy đâu chỉ là những đứa trẻ mà còn là chị Tí với đứa con của mình. Chị kiếm sống bằng công việc ngày đi mò cua bắt ốc, tối chị bán hàng nước. Hàng hóa chị bán là những thứ rẻ tiền, cả cửa hàng như vậy chị chỉ gánh một lần trên vai là hết. Những người khách của chị là "mấy người phục vụ gạo hay phu xe, mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa". Số khách vốn đã ít ỏi nay lại không ổn định ngày nhiều ngày ít". Tất cả như dự báo cái nghèo sẽ đeo bám gia đình chị. Câu trả lời của chị Tí với Liên như tiếng thở dài của số phận của cuộc đời "ôi chao! Sớm với muộn mà có ăn thua gì" nó thể hiện tâm trạng ngao ngán không thể trông chờ vào quán nước này mà mưu sinh được nữa. Có lẽ trong cái phố huyện nghèo này thì gia đình bác Siêu là gia đình có kinh tế khá giả nhất. Nhưng khách hàng của bác cũng ngày ít đi, khách của bác phải là những người có điều kiện về kinh tế. Bởi món hàng của bác là món hàng xa xỉ nhiều tiền. Dự báo cuộc sống của bác sẽ phá sản vì những người đi tàu chỉ mua bao thuốc… đâu có để ý đến phở của bác. Hay gia đình bác Sẩm chỉ biết góp vui bằng tiếng đàn bầu. Trong cuộc sống nghèo khổ ấy đâu ai còn tiền để nghe bác hát, những đứa con nghịch ngợm bò ra ngoài mảnh chiếu rách. Kiếp người ấy cũng chính là bà cụ Thi, dù chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng cũng để lại ám ảnh trong lòng người đọc. Từng ngôn ngữ của chỉ của bà cụ chứng tỏ bà vẫn nhận thức được cuộc sống "A em Liên thảo nhỉ? Hôm nay lại rót đầy cho chị cơ đấy". Bà không hoàn toàn mất đi mọi cảm giác, nhưng điều đau xót nhất là bà nghiện rượu, bà luôn trong trạng thái bất bình thường với "tiếng cười khanh khách" khác chi tiếng cười của một đứa trẻ con. Ta không hiểu tại sao bà lại rơi vào trạng thái không bình thường như vậy, nhưng nó dấy lên một điều lo sợ mơ hồ. Liệu trong cuộc sống khốn khổ ấy sẽ thêm một bà cụ Thi nữa hay không?
Sự đồng cảm của nhà văn được thể hiện qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhân vật Liên, qua đó ta thấy được nỗi lòng xót thương, xót xa những mảnh đời đầy bất hạnh của thời gian: vượt lên trên tất cả cả hoàn cảnh sống nhưng trong họ luôn giàu lòng yêu thương giữa con người với con người. Đối với Liên một cô bé mới lớn khi nhìn thấy "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mảnh đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì" cô lại động lòng thương và muốn cho chúng tiền nhưng bản thân cô lại không có. Hay khi bà cụ Thi vào uống rượu cô chỉ "lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy đưa cho cụ". Cố sợ không dám nhìn cụ, nhưng cô lại thương cụ rót cụ thêm tí rượu để làm thỏa mãn nhu cầu của cụ. Còn đối với mẹ con chị Tí và mọi người xung quanh thì Liên ân cần, nhẹ nhàng, chu đáo hỏi thăm. Nhưng cuộc sống không cho họ những gì họ mong muốn mà còn đẩy đưa số phận của họ vào những con đường tăm tối với cuộc sống bần hàn khổ cực. Trước hoàn cảnh ấy, tác giả đã thể hiện sự cảm thông xót xa cho những mảnh đời nghèo khổ, cơ cực, không có tương lai, không chút ánh sáng của những con người nơi phố huyện này. Đó là ai? Chính là gia đình Liên, mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, gia đình bác Sẩm và cả những đứa trẻ nghèo kia. Tất cả họ chỉ sống quẩn quanh trong phố huyện nghèo nàn này, muốn thoát ra cũng không được. Thấu hiểu điều đó tác giả đã thắp lên cho cuộc sống của họ những ước mơ, khát khao cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là ước mơ của họ "chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ" cái ước mơ ấy không chỉ về giá trị vật chất mà còn tinh thần. Ước mơ ấy được tác giả gửi gắm vào hình ảnh đoàn tàu vì đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Hơn thế nữa chuyến tàu xuất hiện hàng đêm đó như mang đến một thế giới khác với cuộc sống nghèo nàn, tăm tối mà Liên với những người khác đang sống. Khi "đèn rọi đã ra" hai chị em Liên đứng hẳn lên để nhìn cho rõ. Hai chị em Liên háo hức mong đợi chuyến tàu đi qua. Khi đoàn tàu đi qua hai chị em đứng hẳn lên để nhìn cho kĩ. Chuyến tàu ấy mang đến cho phố huyện tối tăm một chút ánh sáng của một thế giới vị thành có "các toa đèn sáng trưng, toa hạng sang trọng, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng". Khi đoàn tàu đi qua để lại bao nuối tiếc trong Liên đầy mơ mộng về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo mà khi cô còn sống ở đó. Đó là hoài niệm của một quá khứ rực rỡ "Liên được uống những cốc nước lạnh xanh, đỏ, đi chơi bờ Hồ" nhưng hiện tại Liên không thể có được.
Phải chăng để vẽ được một bức tranh thiên nhiên, bức tranh của cuộc sống con người nơi phố huyện nghèo này với sự đồng cảm sâu sắc thì Thạch Lam phải có ngòi bút vô cùng tinh tế? Thạch Lam là nhà văn lãng mạn vậy nên cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm "Hai đứa trẻ" rất tinh tế và nhạy cảm. Tác giả lấy điểm nhìn từ buổi chiều tàn "chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru". Câu văn như gieo vào lòng người đọc sự êm ả nhẹ nhàng, nhưng cũng từ đó mới gợi được ra cuộc sống tàn tạ bế tắc. Và khung cảnh đêm buông xuống cũng đầy nhẹ nhàng như vậy "trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát". Tất cả gợi cái hồn quê tĩnh lặng, thanh bình, yên ả đều được đặt dưới cái nhìn tinh tế sâu lặng đầy cảm xúc. Điều đó đã được hà văn gửi gắm qua nhân vật Liên-một cô gái mới lớn có tâm hồn phong phú tinh tế và giàu lòng yêu thương.
Chất thơ vẻ đẹp lãng mạn trong truyện được cảm nhận qua cách nhìn về thời gian. Thời gian trong truyện không được miêu tả thoáng nhanh mà thật chậm rãi qua quan sát của Liên. Đã tạo lên những giai điệu ngân nga lắng sâu vào trong lòng người đọc "chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru" nó thể hiện cái nhìn mượt mà, êm ái, nhẹ nhàng. Hay "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng vang ra để gọi buổi chiều". Câu văn như gợi một cái gì đó êm ả, dịu dàng, thời gian cứ trôi đi chầm chậm theo từng bước nhịp của cơn gió "trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát", những câu văn mượt mà thấm đẫm chất thơ, uyển chuyển khiến người đọc khó có thể cưỡng lại được cảm xúc tươi mới khiến lòng người tươi mới, thanh sạch hơn.
Nhưng có lẽ điều mà tạo nên vẻ đẹp lãng mạn trong truyện chính là không gian đậm chất quê yên bình lặng lẽ của Việt Nam. Những tiếng âm thanh của muỗi bắt đầu vo ve, hay tiếng thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Âm thanh "văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Những âm thanh ấy mang đậm chất hồn quê Việt Nam, tâm trạng u buồn như thấm đẫm vào tâm trạng bạn đọc. Mỗi vùng quê trầm lặng, đơn điệu cùng những thứ âm thanh rời rạc. Hình ảnh bóng tối chính là không gian của nghệ thuật. Mở màn là cảnh ngày tàn kết thúc là đêm tĩnh mịch đầy bóng tối. Xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm chủ yếu là không gian bóng tối. Tiếng trống đánh tung lên một tiếng rồi chìm sâu vào đêm tối. Hay hình ảnh đoàn tàu kêu xa dần rồi chìm vào bóng tối. Phải chăng hình ảnh bóng tối ấy đâu phải là bóng tối của thiên nhiên mà là bóng tối của cuộc đời con người? Hình ảnh bóng tối ấy như ám ảnh con người nơi đây gợi lên cuộc sống cơ cực, không lối thoát không tương lai. Nhưng dưới cái nhìn của Liên đã trở thành "một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát". Lên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen "đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị". Liên "thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn". Những câu văn ấy gợi lên chất thơ, lắng lại những cảm xúc trong lòng người đọc.
Vẻ đẹp lãng mạn của truyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả, xây dựng khi miêu tả ánh sáng trong truyện. Cảm xúc tinh tế của tác giả đã bắt gặp cái nhìn đồng điệu của nhân vật. Để phát hiện ra ánh sáng hiếm hoi trong ánh lên nhịp sống của con người. Đó là những hột sáng, khe sáng, chấm sáng, quầng sáng, vùng sáng, vầng sáng. Thậm chí còn phát hiện ra hòn đá bên sáng bên tối. Phải tinh tế lắm tác giả mới phát hiện ra thứ ánh sáng quý giá như vậy? Chất thơ trong truyện được thể hiện qua sự nhìn nhận của Liên "vòm trời ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây". Từ đó người đọc thấy được vẻ đẹp thơ mộng đến tĩnh lặng.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không chỉ dừng lại ở cuộc sống bế tắc, tù túng, bần hàn. Mà con người nơi phố huyện này còn mang vẻ đẹp đậm nét của con người Việt Nam. Dù nghèo khổ nhưng luôn cần cù, chịu thương chịu khó, sống luôn có tình cảm chan hòa ấm áp. Đó chính là tình cảm bằng hành động quan tâm của Liên với những đứa trẻ, bà cụ Thi hay chính mẹ con chị Tí. Sự quan tâm ấy không chỉ giúp họ về vật chất mà còn về cả tinh thần giúp cuộc sống của họ được cải thiện. Hình ảnh chuyến tàu là hoạt động duy nhất còn lại trong ngày nó mang giá trị tinh thần to lớn. Đó là niềm háo hức mê say đối với hai chị em Liên. Khi đoàn tàu đến hai chị em Liên đứng lên để nhìn thật kĩ. Hình ảnh các khoang tàu nối đuôi nhau chạy, ánh sáng thì kém hơn một lần, người cũng ít hơn. Tàu đi đã để lại nhiều kỉ niệm về Hà Nội xa xăm, đông vui và náo nhiệt. Gợi về quá khứ hạnh phúc mà Liên không còn có được.
Nếu "thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa" thì "Hai đứa trẻ" của nhà văn Thạch Lam là một tác phẩm như vậy. Truyện không chỉ về cuộc đời mà còn chính là thơ. Chất thơ thể hiện cái nhìn của Liên, ở giọng văn của Thạch Lam bàn bạc trong khắp thiên chuyện. Và nói như Thạch Lam "văn chương làm cho lòng người thêm thanh sạch và phong phú hơn" thì có lẽ "Hai đứa trẻ" của ông đã đáp ứng được những đòi hỏi đó. Vì vậy tác phẩm không chỉ có giá trị với riêng văn học giai đoạn 1930-1945 mà nó còn khẳng định chỗ đứng của mình trong mãi sự nghiệp văn học nước nhà sau này.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang
- Cách làm bài văn tả cây bóng mát lớp 4
- Cách làm bài văn thuyết minh về chiếc nón lá
- Cách tả mưa
- Cảm nghĩ của em về ngày 20-11
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều