10+ Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân (điểm cao)

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân

1. Mở bài

+ Giới thiệu tác phẩm Làng của Kim Lân – một truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong kháng chiến chống Pháp.

+ Dẫn dắt vào nhân vật ông Hai – hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu làng, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.

2. Thân bài

a) Hoàn cảnh sống và tâm trạng của ông Hai

+ Ông Hai là người dân làng Chợ Dầu – một ngôi làng có truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng.

+ Vì chiến tranh, ông buộc phải rời xa quê hương, cùng gia đình đi tản cư.

+ Dù sống xa làng, ông Hai luôn đau đáu nhớ về quê, nhớ những ngày cùng anh em tham gia đào hào, đắp lũy.

+ Ở nơi tản cư, ông thường xuyên kể và tự hào khoe với mọi người về làng mình – một ngôi làng giàu đẹp, kiên cường chống giặc.

Quảng cáo

b) Tình huống bất ngờ, éo le

+ Một ngày, ông nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây, làm tay sai cho giặc.

+ Đây là tình huống bất ngờ, trớ trêu, tạo bước ngoặt trong truyện và làm nổi bật tâm trạng, phẩm chất của nhân vật ông Hai.

c) Vẻ đẹp tâm hồn ông Hai

Tình yêu làng sâu sắc:

+ Luôn dõi theo tin tức về làng qua các kênh thông tin.

+ Tự hào, kiêu hãnh về truyền thống của làng.

+ Khi nghe tin làng theo giặc, ông đau đớn tột cùng: cổ nghẹn đắng, giọng lạc đi, ông trốn vào nhà không dám ra ngoài.

+ Nỗi tủi nhục, dằn vặt thể hiện tình yêu làng tha thiết, gắn bó máu thịt với quê hương.

Lòng yêu nước, trung thành với cách mạng:

+ Luôn đến phòng thông tin để nghe tin tức về kháng chiến.

+ Khi nghe tin chiến thắng của quân ta, ông vui sướng đến “ruột gan cứ múa cả lên”.

Quảng cáo

+ Dù yêu làng nhưng ông vẫn khẳng định dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

+ Ông đã vượt qua tình cảm cá nhân để đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.

Niềm vui vỡ òa khi nghe tin cải chính:

+ Khi biết tin làng mình không theo giặc, ông mừng rỡ, hạnh phúc, đi khoe khắp nơi.

+ Cảm xúc này càng cho thấy rõ hơn tình yêu quê hương và lòng trung thành với kháng chiến trong ông.

3. Kết bài

+ Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Làng: Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam – yêu làng, yêu nước, luôn hướng về cách mạng.

+ Liên hệ với thế hệ trẻ ngày nay: cần nuôi dưỡng tình yêu quê hương, ý thức trách nhiệm với đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.

Quảng cáo

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 1

          Văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã ghi dấu nhiều tác phẩm đặc sắc, phản ánh sâu sắc tâm hồn và phẩm chất con người trong hoàn cảnh lịch sử cam go. Một trong những truyện ngắn nổi bật của giai đoạn này là Làng của nhà văn Kim Lân. Truyện không chỉ khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân giữa thời chiến, mà còn thể hiện một cách cảm động tình yêu làng quê gắn bó máu thịt với lòng yêu nước, tinh thần cách mạng – tất cả được kết tinh trong nhân vật ông Hai, người dân làng Chợ Dầu.

Ông Hai là một người nông dân chất phác, gắn bó cả cuộc đời mình với mảnh đất quê hương – làng Chợ Dầu. Trong những ngày kháng chiến, ông cùng gia đình phải rời làng đi tản cư để tránh bom đạn. Xa làng, xa mảnh đất thân thương đã gắn bó từ thuở nhỏ, ông không nguôi nhớ về quê hương, nhớ những ngày cùng anh em đào hào, đắp lũy. Trong tâm trí ông, làng Chợ Dầu luôn hiện lên như một nơi vừa thân thuộc vừa đáng tự hào. Ở nơi tản cư, ông thường khoe với mọi người về làng mình – một ngôi làng giàu đẹp, có truyền thống yêu nước, đi đầu trong kháng chiến. Ông Hai sống bằng những kỷ niệm, bằng niềm tự hào và tình yêu sâu sắc dành cho quê hương.

Biến cố xảy ra khi ông Hai bất ngờ nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Tin đồn như một nhát dao cứa vào lòng ông. Ông bàng hoàng, đau đớn, cổ họng nghẹn lại, giọng lạc đi, không nói nên lời. Cảm giác tủi hổ khiến ông không dám bước chân ra ngoài, không dám trò chuyện với ai. Ông thu mình trong nỗi dằn vặt và nhục nhã. Tình huống éo le này đã đặt ông Hai vào một thử thách lớn về tình cảm: giữa một bên là tình yêu quê hương, một bên là lòng trung thành với cách mạng. Qua đó, vẻ đẹp tâm hồn của ông được bộc lộ rõ nét và sâu sắc.

Tình yêu làng của ông Hai không phải là thứ tình cảm mù quáng. Đó là tình yêu đã được thử thách, sàng lọc trong lửa đỏ của lòng yêu nước. Khi đứng trước nỗi đau tinh thần tột cùng, ông không chọn cách phản bội lại lý tưởng cách mạng. Dù yêu làng tha thiết, nhưng ông vẫn quả quyết: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy như một tuyên ngôn thể hiện bản lĩnh, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc của người nông dân Việt Nam. Ông không để tình cảm cá nhân lấn át lý trí và tinh thần dân tộc. Đồng thời, tình yêu nước trong ông được thể hiện rất rõ qua việc ông thường xuyên đến phòng thông tin để nghe tin chiến sự, vui sướng khi biết tin thắng trận của quân ta, đau đáu dõi theo từng bước đi của kháng chiến.

Niềm vui rạng rỡ, vỡ òa khi ông nghe tin cải chính – làng Chợ Dầu không hề theo giặc, như một sự giải thoát khỏi nỗi đau đớn dằn vặt. Ông vui đến mức chạy đi khoe khắp nơi về ngôi làng của mình, ánh mắt long lanh niềm hạnh phúc. Hành động ấy không chỉ là sự trở về với niềm tin, mà còn khẳng định sâu sắc hơn nữa tình yêu và sự trung thành của ông đối với làng, với đất nước.

Qua nhân vật ông Hai, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chân thực tâm lý người nông dân trong kháng chiến – một con người có tình yêu quê hương tha thiết, đồng thời cũng là người mang trong mình lòng yêu nước và tinh thần cách mạng cao đẹp. Nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ, miêu tả tâm lý tinh tế cùng lối kể chuyện tự nhiên, chân thực đã làm nên sức hấp dẫn cho truyện ngắn Làng.

Từ hình ảnh ông Hai, thế hệ trẻ hôm nay cần suy ngẫm và học hỏi. Trong thời đại hòa bình, tình yêu quê hương – đất nước không chỉ là tình cảm mà còn là hành động: học tập tốt, sống có trách nhiệm, có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến vì sự phát triển của Tổ quốc. Cũng như ông Hai, mỗi người trẻ cần biết đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích cá nhân, giữ vững bản lĩnh và lòng tin vào con đường đúng đắn của dân tộc.

Làng không chỉ là câu chuyện về một con người, một ngôi làng, mà còn là câu chuyện của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử đầy thử thách. Tác phẩm đã góp phần khẳng định: tình yêu làng quê và lòng yêu nước luôn là những phẩm chất cao đẹp, trường tồn trong tâm hồn người Việt.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 2

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về người nông dân với lối kể chuyện chân thật, giản dị mà đầy cảm xúc. Trong truyện ngắn Làng, ông đã khắc họa thành công hình ảnh ông Hai – một người nông dân yêu làng tha thiết, qua đó thể hiện sâu sắc lòng yêu nước, gắn bó với cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Ông Hai là một người dân làng Chợ Dầu. Khi giặc đến, ông cùng gia đình phải đi tản cư. Dù sống xa quê hương, ông luôn nhớ về làng, nhớ những ngày cùng anh em đắp đê, đào hào, chuẩn bị chống Pháp. Ở nơi tản cư, ông không ngừng tự hào kể với mọi người về ngôi làng của mình: giàu đẹp, kiên cường, có truyền thống kháng chiến. Qua đó, ta thấy ông là người gắn bó sâu sắc với quê hương – một tình cảm rất tự nhiên, chân thật.

Tuy nhiên, một biến cố bất ngờ xảy ra: ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, làm Việt gian. Tin ấy khiến ông như chết lặng. Ông đau khổ, nhục nhã, xấu hổ đến mức không dám ra khỏi nhà. Ông nghi ngờ, dằn vặt, tự trách bản thân. Tình huống éo le ấy đã giúp nhà văn bộc lộ rõ hơn tâm trạng và phẩm chất cao đẹp của ông Hai.

Điều đặc biệt là dù rất yêu làng, ông vẫn khẳng định dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy thể hiện lòng yêu nước cao hơn tất cả. Ông sẵn sàng hi sinh tình yêu quê hương nếu điều đó đi ngược lại với cách mạng, với Tổ quốc. Đó là phẩm chất cao quý của người nông dân Việt Nam trong thời chiến: không chỉ biết yêu làng, yêu đất, mà còn biết phân biệt đúng sai, đặt lợi ích dân tộc lên trên tình cảm cá nhân.

Khi nghe tin cải chính – làng ông không theo giặc – ông vui sướng khôn xiết, chạy đi khoe khắp nơi. Nỗi hạnh phúc giản dị ấy càng cho thấy tình yêu làng quê trong ông sâu đậm biết bao, đồng thời khẳng định lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với đất nước.

Truyện ngắn Làng không chỉ là câu chuyện về một con người yêu làng mà còn là hình ảnh thu nhỏ của biết bao người nông dân Việt Nam trong kháng chiến. Qua ngôn ngữ mộc mạc, tình huống bất ngờ và nghệ thuật miêu tả tâm lý sinh động, Kim Lân đã truyền tải một thông điệp sâu sắc: yêu làng phải gắn liền với yêu nước, yêu nước là tình cảm thiêng liêng cần đặt lên trên hết.

Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình, thế hệ trẻ chúng ta cần học tập tinh thần yêu nước của ông Hai – biết trân trọng quê hương, không ngừng rèn luyện, học tập và cống hiến để bảo vệ, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 3

Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách "phong lưu đồng ruộng" như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v... được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.

Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.

Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.

Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm "ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay". Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,... ông đều làm khéo, làm giỏi.

Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học "bình dân học vụ", biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. "Làng ta phong cảnh hữu tình"... không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, "nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh", "đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió ...bùn không dính đến gót chân"...

Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe "cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy...". Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên "hả hê cả lòng". Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn "đả động" đến "cái sinh phần" ấy nữa, ông biết "thù nó" đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông "mà cái phòng thông tin tuvên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy". Ông khoe làng mình "những ngày khởi nghĩa rầm rập", các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, "nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết!". Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác... hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.

Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi "Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ". Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích "đi đào đường, đắp ụ" để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: "Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!".

Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ: "Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!". Chúng ta cảm thông với "tâm sự" u uẩn của ông, thương ông lắm!

Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án "dữ" cả làng Chợ Dầu "Việt gian theo Tây",.., "vác cờ thần ra hoan hô" lũ giặc cướp! ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. "Gian nhà lặng đi, hiu hắt". Ông sợ mụ chủ nhà... có lúc ông nghĩ quẩn "hay ta quay về làng"... nhưng rồi ông lại kiên quyết: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ... của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!

Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:

... - "À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?"

- "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!"

Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má... Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.

Vì thế, khi cái tin thất thiệt "cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây" được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông "tươi vui, rạng rỡ hẳn lên", "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ...". Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để "khoe" cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.

Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước... tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc "giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"... (Thép Mới).

"Quê hương là chùm khế ngọt..." là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới "ngói hóa", no ấm, giàu có trong thanh bình.

Bài học sâu sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 4

Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để cứu nước, có biết bao những con người thể hiện được tình yêu của mình tới đất nước. Bằng rất nhiều cách khác nhau, họ đã thực hiện bằng những hành động và lời nói. Qua những tác phẩm của những nhà văn thời kì này, tình cảm của người dân dành cho kháng chiến, dành cho cách mạng được miêu tả một cách chi tiết, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tấm lòng và tình cảm của người dân lúc ấy. Và trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã cho chúng ta thấy điều đó. Câu chuyện kể về nhân vật ông Hai cùng tình yêu làng của ông qua rất nhiều tình huống khác nhau đã được bộc lộ rõ.

Ông Hai là một người luôn yêu làng của ông. Làng của ông là ngôi làng chợ Dầu nổi tiếng khắp cả vùng đất Kinh bắc. Những tình cảm của ông được thể hiện qua việc ông luôn khoe với mọi người về làng của mình. Làng của ông giàu có, sầm uất ra sao, có rất nhiều nhà ngói, đường đi được lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng về cuối làng không bị ướt…

Trong lòng của ông, không gì có thể so sánh được với làng của ông. Làng của ông luôn đứng đầu tiên trong trái tim của ông. Do đó, ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của mình. Ông đi khoe với tất cả mọi người về làng của mình. Đây là thời kì trước khi kháng chiến cứu nước xảy ra. Khi đó, những gì mà ông có thể làm chính là tự hào về ngôi làng của mình.

Sau đó, tới thời kì toàn quốc kháng chiến cứu nước, ông không còn khoe làng của mình giàu có nữa mà ông tự hào về hình ảnh của làng ông với những hào giao thông chằng chịt, những cụ già râu tóc bạc phơ nhưng vẫn ngày ngày vác súng tập luyện bước đi “ một hai một hai” với khí thế vô cùng hiên ngang, mạnh mẽ.

Là ngôi làng có chòi phát thanh cao nhất cả vùng. Những gì mà ông nhớ về làng chính là những điều mà làng của ông đã và đang phục vụ cho kháng chiến. Cũng chính bởi như vậy mà những người ở bên cạnh ai ai cũng mừng cho ông, cũng cảm thấy vui vì có những làng chợ Dầu như nhà ông.

Thế nhưng mọi thứ thay đổi khi có tin làng chợ Dầu của ông theo địch. Tưởng chừng như đó là thông tin sét đánh ngang tai đối với ông Hai. Ông không biết phải làm như thế nào cả bởi mọi thứ đã vượt quá sức tưởng tượng của ông. Nếu như trước kia, ông tự hào vì làng theo kháng chiến bao nhiêu thì nay, ông lại nhục nhã bấy nhiêu.

Những cảm xúc của ông Hai được tác giả Kim Lân thể hiện rất rõ qua những chi tiết miêu tả tâm trạng “ cổ ông nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như không thở được…”. Cảm xúc của ông thể hiện một cách mãnh liệt. Những gì mà ông nghe được tưởng như là điều không thể tưởng tượng được. Ông cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, không biết phải làm điều gì tiếp theo.

Thậm chí, ông còn không dám đi ra ngoài đường vì sợ người ta bàn tán, xì xào sau lưng ông. Và cuối cùng, những gì mà ông lo lắng đã tới. Bà chủ nhà nghe tin đã không cho gia đình ông được ở lâu dài. Họ chỉ cho gia đình ông ở hết tháng này, tới tháng sau phải chuyển đi chỗ khác. Đau khổ là thế, tuyệt vọng là thế, nhưng ông Hai lại chẳng thể tâm sự cùng bất kì một người nào cả.

Những nỗi niềm ấy chỉ có thể nuốt trọn vào trong, có những lúc, ông lại nói chuyện cùng với đứa con gái nhỏ của mình. Lo lắng cho tương lai không biết đi đâu tiếp theo, có những lúc ông vừa chớm suy nghĩ “ hay là quay trở về làng” thì ngay lập tức ông lại phủ định suy nghĩ đó “ làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”.

Chỉ với chi tiết nhỏ đã thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của ông Hai dành cho Tổ quốc. Cuối cùng, mọi chuyện chỉ được tháo bỏ hiểu lầm khi có tin làng chợ Dầu của ông Hai không hề theo giặc, thậm chí cả làng còn bị bọn chúng đốt sạch, không còn lại gì cả. Ông Hai cảm thấy hạnh phúc như cởi hết được những nỗi lòng của mình.

Ông đi khoe với tất cả mọi người về cái tin làng chợ Dầu bị giặt đốt với tất cả những nhiệt huyết của mình như để cho tất cả mọi người cùng biết. Ai ai cũng mừng cho ông vì đã có được những tình cảm như vậy. Lòng nghi ngờ không còn nữa, cuộc sống của ông Hai đã trở về như cũ, mọi thứ lại tiếp tục theo đúng những guồng quay của nó.

Đọc tác phẩm, chúng ta càng thấm thía những tình cảm của những người như ông Hai nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung dành cho kháng chiến, dành cho đất nước. Những tình cảm ấy đã góp phần không nhỏ vào những chiến thắng của quân và dân ta giúp đất nước thoát khỏi chiến tranh.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 5

Kim Lân, một trong những nhà văn nổi tiếng về truyện ngắn trong văn học hiện đại Việt Nam, nổi bật với sự hiểu biết sâu sắc và mối liên kết mạnh mẽ với cuộc sống nông thôn và người nông dân. Các tác phẩm của ông thường đề cập đến những khía cạnh của cuộc sống, nét văn hóa truyền thống của người nông dân Bắc Bộ.

Nguyên Hồng đã nhận xét về Kim Lân với sự tận tâm với "đất", "người", và "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, ông còn tỏa sáng trong việc khai thác các chủ đề như tình yêu quê hương, lòng yêu nước, và tinh thần kháng chiến trong truyện ngắn "Làng" (1948).

Thông qua câu chuyện về ông Hai, Kim Lân đã thành công trong việc tạo ra một tình huống đầy kịch tính và thú vị. Sự ganh đua giữa tình yêu làng và tình yêu nước đã tạo nên một bức tranh phức tạp về nội tâm nhân vật. Mỗi biến cố trong truyện đều làm nổi bật sự đấu tranh, xung đột trong tâm trí ông Hai, từ niềm vui sướng đến nỗi đau đớn và tuyệt vọng.

Ngôn ngữ sử dụng trong "Làng" cũng rất đặc sắc và gần gũi. Với lời văn mộc mạc, giản dị, ông Lân đã tạo ra một bức tranh sống động về cuộc sống nông thôn, trong đó ngôn từ, diễn đạt chân thực nhưng không kém phần tinh tế.

Từ đó, ta có thể thấy rõ sự tài năng và sáng tạo của Kim Lân trong việc tạo ra những tác phẩm truyện ngắn đầy sức hút và ý nghĩa. Đồng thời, qua "Làng", chúng ta cũng nhận thấy sự am hiểu sâu sắc về con người và đời sống của người nông dân Việt Nam, là một phần không thể thiếu trong văn học dân tộc.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 6

Người văn hào có biệt danh Kim Lân, tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1921 tại Hà Bắc, là một cá nhân có đóng góp to lớn vào văn học Việt Nam. Ông được biết đến chủ yếu qua việc viết truyện ngắn, bắt đầu từ giai đoạn trước cách mạng tháng 8. Với sự sâu sắc và hiểu biết về cuộc sống nông thôn, Kim Lân thường tập trung mô tả về sinh hoạt và tâm trạng của người dân nông thôn. Trong số các tác phẩm của ông, "Làng" được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948).

Truyện "Làng" không chỉ là một câu chuyện đơn giản về một người nông dân tên Hai Tu, mà còn là một bức tranh sâu sắc về tình yêu quê hương và làng nước. Tình yêu nước của Hai Tu chính là tình yêu sâu đậm dành cho quê hương, cho làng quê của mình. Tâm hồn yêu nước này đã trở thành điều phổ biến trong lòng mỗi người dân nông thôn Việt Nam trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hai Tu yêu thương làng chợ Dầu của mình đến mức say mê, cuồng nhiệt. Mỗi khi có dịp, ông không ngần ngại khoe về vẻ đẹp và tiến bộ của làng. Ông miêu tả về những ngôi nhà ngói sáng bóng, đường làng rộng rãi được lát bằng đá xanh, và một mùa gặt tốt đẹp không có một hạt thóc nào dính đất. Ông cũng tự hào về sự lãnh đạo tài ba của tổng đốc làng. Tuy nhiên, sau thành công của cách mạng, Hai Tu nhận ra những sai lầm trong quan điểm của mình. Từ đó, mỗi khi ông khoe về làng, điều ông chia sẻ không còn là những thành tựu vật chất mà là những kỷ niệm về những ngày khởi nghĩa và những nỗ lực của người dân trong cuộc chiến.

Cuộc xâm lược của giặc vào làng khiến cho Hai Tu buộc phải rời xa nơi quê hương. Sự chia xa này không chỉ gây ra nỗi đau lòng mà còn là một thử thách tinh thần lớn cho ông. Trong tâm trạng day dứt và bất an, ông cảm thấy cuộc sống nơi xa xứ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên, tình yêu sâu đậm với đất nước đã khiến cho Hai Tu không thể quên được làng quê của mình, và ông luôn khao khát được quay về. Nhưng ý nghĩ này bị đối lập ngay trong lòng ông khi ông nhận ra rằng làng đã "thay mặt" và đi theo giặc.

Cuộc xung đột trong tâm trí Hai Tu giữa tình yêu với làng quê và tình yêu với đất nước là điều không hiếm trong thời kỳ kháng chiến. Tuy nhiên, tình yêu đối với đất nước cuối cùng đã chiến thắng. Sự biểu hiện chân thành của tình yêu này được thể hiện qua những cuộc trò chuyện của Hai Tu với con trai út của mình. Trong những lời nói đơn giản nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa, ông thể hiện lòng trung thành với cách mạng và tình yêu sâu đậm đối với quê hương.

Kim Lân đã thành công trong việc mô tả tâm lý của nhân vật Hai Tu từ đầu đến cuối truyện. Sự phát triển của tâm trạng của ông được miêu tả một cách chân thực và cảm động. Đây là một tài năng nghệ thuật đáng ngưỡng mộ mà Kim Lân đã thể hiện qua tác phẩm "Làng". Đọc truyện này, ta không chỉ hiểu hơn về tâm trạng của người dân trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp mà còn cảm nhận được lòng yêu nước và tình yêu với làng quê của họ. Kim Lân đã khẳng định tài năng và uyên bác của mình thông qua tác phẩm này, tạo ra một bức tranh sâu sắc về cuộc sống và tâm trạng của nhân dân Việt Nam vào thời kỳ kháng chiến.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 7

Kim Lân, một trong những nhà văn hiện đại nổi tiếng của Việt Nam, đã khắc họa một cách sâu sắc và sinh động về cuộc sống nông thôn qua những tác phẩm vô cùng đặc sắc của mình. Ông không chỉ làm sống lại những hình ảnh đẹp đẽ của văn hóa dân gian với các hoạt động như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, mà còn chứng minh sức mạnh của tình yêu quê hương và lòng trung thành với kháng chiến.

Trong tác phẩm "Làng", Kim Lân mô tả một cách rất thành công về cuộc đời của ông Hai - một người nông dân kiên cường và yêu nước. Ông Hai không chỉ là một lão nông chất phác và cần cù, mà còn là một chiến sĩ cách mạng trung thành với lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh.

Cuộc sống của ông Hai đã trải qua nhiều biến cố, từ việc học chữ đến tham gia vào cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù ác độc. Qua từng trang sách, chúng ta được chứng kiến những khát vọng, niềm hy vọng, và cả những nỗi đau thương của ông Hai, khi ông đối mặt với sự phản bội và tàn ác của kẻ thù.

Tuy cuộc đời ông Hai không thiếu những biến cố và thử thách, nhưng tình yêu của ông dành cho quê hương và niềm tin vào tương lai vẫn luôn rạng ngời. Tác phẩm của Kim Lân không chỉ là câu chuyện về một người nông dân, mà còn là một bài học về lòng kiên trì, lòng trung thành, và tình yêu quê hương đất nước.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 8

Quê hương, là nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm thân thương và bình dị nhất trong tâm khảm của mỗi người. Tình yêu quê hương luôn là một chủ đề sâu sắc trong văn học, và trong số đó, truyện ngắn "Làng" của Kim Lân cũng không ngoại lệ. Nằm trong chuỗi sự kiện của cuộc kháng chiến chống Pháp, tác phẩm này đã thành công trong việc khắc họa nhân vật ông Hai - một lão nông cần cù, chăm chỉ, và với một tâm hồn sâu sắc yêu làng quê, yêu đất nước.

Ông Hai yêu thương làng quê của mình một cách sâu sắc và tha thiết. Mỗi khi nhắc đến làng Chợ Dầu, ông không ngừng khoe về những đặc điểm độc đáo và đẹp đẽ của làng, như nhà ngói san sát, đường làng được lát bằng đá xanh, không hề bị ảnh hưởng bởi bùn đất dù trong trời mưa. Ông tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng và về lịch sử giàu có của làng. Tuy nhiên, sau thành công của cách mạng, ông nhận ra sự sai lầm của mình và bắt đầu tự hào về tinh thần kháng chiến của làng. Sự tham gia vào cuộc kháng chiến không chỉ là sự bảo vệ quê hương, mà còn là sự thể hiện của tình yêu nước và lòng trung thành với lãnh đạo cách mạng.

Tuy rằng ông đã rời xa làng để tham gia vào cuộc kháng chiến, nhưng tâm trí ông luôn đắm chìm trong những kỷ niệm về quê hương. Ông nhớ về từng góc phố, từng con đường, và mọi chi tiết nhỏ bé của làng. Tình yêu của ông dành cho làng đã thúc đẩy ông tham gia vào cuộc kháng chiến, và sự hy sinh của ông không chỉ dừng lại ở việc xa nhà, mà còn là sự thể hiện của lòng trung thành và tình yêu với quê hương.

Tuy nhiên, niềm vui của ông không được kéo dài khi ông nghe tin đồn rằng làng Chợ Dầu đã bị coi là "Việt gian" theo Tây. Sự sốc và đau đớn của ông trước tin tức này là không thể diễn tả. Ông đã phải đối diện với sự đau đớn và nỗi lo sợ về tương lai của làng và của bản thân mình. Nhưng thông qua những cuộc trò chuyện nội tâm và những tư duy đối lập, ông đã quyết định đi theo con đường của lẽ phải và của lòng trung thành với đất nước, thể hiện bằng việc ủng hộ lãnh tụ Cụ Hồ và các nguyên tắc của cách mạng.

Cuối cùng, khi tin tức được cải chính và làng Chợ Dầu được xác nhận là vô tội, ông đã cảm thấy một niềm hạnh phúc và an ủi lớn. Ông đã được tự hào về làng, và sự hòa quyện giữa tình yêu với làng quê và tình yêu với đất nước đã thể hiện rõ ràng trong quyết định và hành động của ông. Điều này thể hiện sự thay đổi và phát triển của tư tưởng và tình cảm của người dân nông thôn Việt Nam trong cuộc sống hiện đại, nhưng tình yêu và sự trung thành với quê hương vẫn là giá trị không bao giờ phai mờ.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 9

Trong những năm tháng kháng chiến của đất nước, hòa vào tinh thần kháng chiến của cả dân tộc, lòng yêu nước của mỗi con người chính là sức mạnh tạo nên thắng lợi vẻ vang. Có nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước, yêu làng, gắn bó với làng cũng chính là thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã nói về một người nông dân có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.

Nhân vật chính của truyện là ông Hai, ông là người dân của làng Chợ Dầu và ông yêu lắm cái làng của mình, lúc nào cũng khoe làng mình với tất cả niềm hãnh diện, tự hào. Lúc nào kể về làng ông cũng kể say xưa, cứ kể mà không cần biết người ta có chú ý nghe hay không. Ông kể về mọi thứ, từ những mái nhà ngói san sát sầm uất như thành phố, những con đường lát đá xanh trời mưa bẩn không đến gót chân, đường ấy mà phơi thóc thì thượng hạng, không một hạt thóc đất. Đối với ông cái gì của làng cũng to lớn và đẹp đẽ nhất, bên cạnh đó ông còn vinh dự và tự hào vì làng mình có bề dày lịch sử, về tinh thần kháng chiến của làng.

Những buổi tập có cả ông cụ râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập, những hố, ụ, hào, lắm công trình không kể đâu cho hết. Khi phải xa làng đến nơi tản cư, ông đã mang theo nỗi nhớ thương, trông ngóng về làng, dù xa làng nhưng ông luôn dõi theo, nghe ngóng tin tức từ làng. Tới khi ông nghe phải tin dữ, rằng làng ông theo Tây, ông đã đau đớn và nhục nhã biết bao, ông dù không dám tin nhưng vẫn cảm thấy mặc cảm, tủi nhục và xấu hổ vô cùng khi người ta cứ chửi cả làng ông như thế. Ông không dám đối diện, cũng không có cách nào nghĩ khác đi, ông chỉ biết ru rú trong nhà, ám ảnh nỗi xấu hổ và nhục nhã, cho tới khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi, ông cảm thấy bế tắc, ông thoáng nghĩ trở về làng nhưng đã gạt phắt đi “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

Có thể nói, nhà văn đã rất đồng cảm, thấu hiểu để có thể miêu tả chân thật và sinh động tâm trạng của ông Hai khi chứng kiến nỗi đau làng theo Tây, ông yêu làng nhưng ông vẫn rạch ròi với yêu nước, dù làng có còn hay mất thì tấm lòng của ông vẫn luôn hướng về cách mạng, ủng hộ cụ Hồ và kháng chiến. Khi ông nghe được tin cải chính làng Chợ Dầu của ông không theo giặc, chẳng có gì có thể diễn tả nỗi niềm sung sướng và hạnh phúc của ông, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ. Ông cứ đem cái tin mà Tây nó đốt nhà ông cháy tàn cháy rụi ra mà khoe, ông chẳng tiếc gia tài của mình miễn đó minh chứng cho sự trung thành và danh dự của làng. Tình cảm của ông Hai đối với làng thật khiến cho người ta xúc động và khâm phục.

Qua truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc, đó chính là một nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, tinh thần kháng chiến bất diệt. Ông chính là đại diện cho những người nông dân yêu nước trong thời kì chống Pháp lúc bấy giờ.

Bài văn nghị luận về truyện ngắn Làng của Kim Lân - mẫu 10

Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo Văn nghệ năm 1948. Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai, một nông dân phải xa làng đi tản cư. Qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp.

Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến. Đó là tình cảm quê hương đất nước. Một tình cảm mang tính cộng đồng nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động của một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân vật.

Cũng như những người nông dân khác thời kháng chiến, bằng một thứ tình cảm khá đặc biệt ông Hai rất yêu làng, mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên, nơi cất tiếng khóc chào đời đầu tiên của ông, đó là làng Chợ Dầu. Ông say mê kể về làng, luôn khoe làng mình, tự hào ở làng về nhiều mặt. Tình cảm ấy được bộc lộ tha thiết nhiệt thành khi ông phải xa làng đi tản cư.

Ông Hai nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động. Hơn thế nữa đây không phải là lần thứ nhất nói chuyện về làng. Tối nào cũng vậy, lần nào cũng như lần nào, phần nói về làng cũng là phần để kết thúc câu chuyện.

Thái độ của ông Hai với làng thể hiện gọn gàng trong một chữ khoe. Những lời khoe của ông thật đa dạng, khi thì hãnh diện, khi thì mê man giảng giải, khi thì rành rọt, khi nói liên miên. Ông Hai khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh.

Ông Hai còn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng được cái sinh phần đó lắm. Cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu Hà Đông. Sau cách mạng ở ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình.

Ông không khoe cái lăng ấy nữa mà còn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ông, làm khổ những con người của làng ông. Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa, những buổi tập quân sự, những hố những ụ, những giao thông hào của làng ông. Thậm chí có đôi lúc ông Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu chuyện đâu.

Phải nói rằng những biểu hiện và tính khoe làng của ông Hai đó là tình yêu làng tha thiết. Yêu lắm về mảnh đất làng quê nên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng, đỡ nhớ phong trào cách mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ.

Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu làng chợ Dầu, ông không muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự. Ông luôn luôn có suy nghĩ: Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ, ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là công việc chung chứ của riêng ai. Ông Hai bị hoàn cảnh dồn ép khổ sở lắm.

Ông không trực tiếp kháng chiến ở làng mà phải đi tản cư. Đi tản cư xa làng ông Hai không ngày nào, không lúc nào không nghĩ về làng. Nỗi nhớ làng luôn luôn túc trực trong lòng ông. Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung ở những hoạt động kháng chiến; hát hò, đào hào, khuân đá. Tình yêu làng quê của ông Hai đã phát triển, đã được bồi dưỡng thêm bằng tình cảm mới – tình kháng chiến. Ông Hai không chỉ là người dân làng chợ Dầu, ông còn là một chiến sĩ gắn bó với phong trào kháng chiến của làng.

Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống của người nông dân. Tình cảm gắn bó với làng quê, tự hào về quê hương mình. Cái tâm lí tự hào đó cũng được ca dao thể hiện:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn. Ở ông Hai tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước. Đúng như nhà văn I-li- a Ê ren bua có nói: "… lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu làng quê trở nên lòng yêu tổ quốc". Để mỗi người đọc chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm yêu làng yêu nước của ông Hai – người nông dân cách mạng.

Tác giả đã đặt ông Hai vào một tình huống gay gắt. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông. Một người luôn luôn khoe làng, tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin đột ngột ấy không đau đớn sao được. Ông Hai sững sờ, cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được.

Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông. Ra đường ông cúi gằm mặt xuống mà đi, về nhà nằm vật ra đường nước mắt trào ra. Bao nhiêu câu hỏi dày vò, rồi trằn trọc không ngủ được. Không chỉ có thế mà suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng, rồi nơm nớp lo chuyện loan ra.

Ông Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống. Mà ông cũng không thể về làng vì về là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Với ông làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tấm lòng của ông, tình yêu làng yêu nước của ông chỉ có một mình ông hiểu chẳng biết nói cùng ai.

Ông đem nỗi lòng của mình trò chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lòng ông: Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Đó có phải chăng là tấm lòng của ông Hai. Tình cảnh của ông Hai, diễn biến tâm trạng của ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhận được tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Bác Hồ.

Nhưng có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ Dầu được cải chính không theo giặc. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi hẳn lên ông gọi con ra chia quà. Ông múa tay múa chân lên mà khoe, xúc động nhất là ông Hai chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt.

Niềm vui vì làng không theo giặc, không làm Việt gian đã chiếm hết tâm trí ông, đau khổ bế tắc đã được khơi thông. Lúc này ông Hai nói chuyện về làng mình cho mọi người nghe thật rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa được dự trận đánh mới về. Có thể nói rằng ông Hai là một hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước. Một mẫu người đáng quí của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bên cạnh thành công về mặt nội dung, truyện Làng của Kim Lân còn thành công về mặt nghệ thuật. Truyện xây dựng cốt truyện theo diễn biến tâm lí có sức thuyết phục và có ý nghĩa sâu sắc chính vì tình cảm quê hương của một người dân có tinh thần kháng chiến.

Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn, lời ăn tiếng nói dân dã, mộc mạc. Tác giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của Kim Lân.

Đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân, tác giả đã để lại trong ta một ấn tượng tốt đẹp về hình ảnh ông Hai. Một nông dân hay làm hay khoe, gắn bó bền chặt với làng. Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Đồng thời cũng cảm nhận sự sáng tạo tình huống truyện của một cây bút có sở trường viết về nông dân, viết về làng quê của nhà văn Kim Lân.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học