Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp 10+ Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt (hay, ngắn gọn)
Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt
I. Mở bài:
- Giới thiệu về Kim Lân và phong cách sáng tác của ông.
- Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt, nêu khái quát giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện.
II. Thân bài:
1. Giá trị hiện thực:
- Tái hiện bức tranh nạn đói năm 1945 với không gian ảm đạm, chết chóc.
- Cuộc sống khốn khổ của người dân: đói khát, bấp bênh, ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh.
- Thực trạng con người bị rẻ rúng, mất đi phẩm giá chỉ để giành giật sự sống (thị theo Tràng về làm vợ vì miếng ăn).
- Lên án chính quyền thực dân, phát xít đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng.
2. Giá trị nhân đạo:
- Sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ của con người.
- Ngợi ca vẻ đẹp tình người giữa cái đói: lòng nhân ái, sự cưu mang lẫn nhau (Tràng cưu mang thị, bà cụ Tứ chấp nhận con dâu).
- Khát vọng sống và hạnh phúc mãnh liệt của con người dù trong hoàn cảnh bi thảm.
- Niềm tin vào tương lai tươi sáng qua hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
- Ý nghĩa của truyện trong việc phản ánh xã hội và trân trọng phẩm chất con người.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - mẫu 1
Văn học giai đoạn 1954 – 1975 là văn học đi theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm vì thế thường mang trong mình một xu hướng chung là cổ vũ chiến đấu, đôi khi không tránh khỏi sự đơn điệu. Vợ chồng A Phủ có thể coi là tác phẩm hiếm hoi, trên nền chung của văn học giai đoạn này nhưng vẫn có những bứt phá riêng, tạo dấu ấn cho tác phẩm thông qua hai giá trị xuyên suốt là giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết tác phẩm giàu giá trị hiện thực. Giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học có thể hiểu là sự phản ánh hiện thực cuộc sống, con người trong một tác phẩm nào đó, qua đó nhằm phát hiện, tố cáo, vạch trần hoặc phản ánh thực trạng cuộc sống đương thời.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện rõ qua hai nhân vật là Mị và A Phủ, mà số phận của Mị thể hiện nhiều hơn cả. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nhưng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, từ khi chưa sin ra Mị đã mang trong mình mối nợ truyền kiếp từ cha mẹ để lại. Cha mẹ Mị vì nghèo nên khi lấy nhau phải vay tiền của Thống lí Pa Tra, món nợ ấy đã trả biết bao năm vẫn chưa hết, sau trở thành gánh nặng đè lên cuộc đời cô, đẩy Mị vào cuộc sống đầy tăm tối.
Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ, mặc dù Mị đã cầu xin cha để mình làm nương trả dần. Nhưng ý quan trên đâu thể kháng lại, đặc biệt khi Mị vừa có nợ, vừa là một thảo dân nhỏ bé. Dựa vào tục lệ cổ hủ bắt vợ, thống lí Pá Tra đã thực hiện được mưu đồ của mình, Mị chính thức trở thành con dâu gạt nợ. lấy về không tình yêu thương, thực tế Mị chỉ là một nô lệ trong gia đình thống lí. Ngòi bút của Tô Hoài đã vạch trần những hủ tục đẩy con người vào bước đường cùng, tước đoạt quyền tự do, hạnh phúc của một cn người.
Mị sống ở nhà chồng mà tựa như sống ở địa ngục. Mị làm việc quanh năm, không có lúc nào ngơi chân, ngơi tay. Mị không còn là cô gái xinh đẹp, hoạt bát, yêu đời, với tiếng sáo véo von làm say lòng biết bao người mà trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Thế giới của Mị chỉ có đồng, nương, ruộng hoặc một cân phong nhỏ, mà thực chất là nhà tù nhỏ bé, chật hẹp, chỉ có ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. thật khó có thể tưởng tượng ra một cô gái yêu đời, đã có lúc sẵn sang dung cái chết để cự tuyệt sự hành hạ về thể xác lại có thể chai lì về cảm xúc đến như vậy. Ngòi bút của Tô Hoài càng trở nên sắc sảo hơn, khi cho bạn đọc thấy bàn tay độc ác của kẻ cầm quyền đã hãm hại, cầm tù tâm trí, thể xác của con người đến mức độ nào.
Và để giá trị hiện thực càng nổi bật hơn nữa, cuối tác phẩm khi Mị cứu A Phủ, điều cô nghĩ duy nhất đó là cứu người này, bởi bản thân mình “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Thân đã cúng trình mà nhà thống lí thì mãi mãi phải sống ở đây cho đến lúc chết, tâm lí nơm nớp lo sợ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người, khiến họ không thể vung thoát. Sự ngu muội của người dân, cách thống trị thần quyền và cường quyền độc ác đã khiến con người ta hoảng loạn, sợ hãi, không thể tự cứu lấy chính mình.
Để bức tranh hiện thực thêm đậm nét, A Phủ được Tô Hoài miêu tả bổ sung. A Phủ cũng là nô lệ, là kẻ gạt nợ của thống lí vì đánh A Sử. Cường quyền nằm trong tay kẻ bất nhân, nên những người vô danh tiểu tốt như A Phủ luôn bị hàm oan. Giữa trốn ngu muội đó làm gì có công lí, làm gì có công bằng. Bởi vậy người con trai khỏe mạnh là A Phủ đã trở thành nô lệ của nhà thống lí, thậm chí vì làm mất bò còn bị trói đứng cho đến chết nếu không có Mị kịp thời cứu.
Không chỉ giàu giá trị hiện thực mà Vợ chồng A Phủ còn giàu giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện chủ yếu ở con đường các nhân vật thoát khỏi bóng tối, sự u mê để đến với ánh sáng. Mị có hai lần nổi loạn, trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ, cứu chính mình. Trong lần nổi loạn đầu tiên, Mị tác giả đã vô cùng công phu bài trí các yếu tố logic, hợp lí để thúc đẩy tâm trạng nhân vật phát triển. Khung cảnh mùa xuân ấm áp, tràn ngập tình xuân, những bông hoa đua nở, nhưng chiếc váy mèo sặc sỡ trên triền núi và tiếng trẻ con vui đùa phần nào đã tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng chỉ có vậy thôi không đủ mà còn phải có tác động của rượu và tiếng sáo. Rượu là chất xúc tác khiến con người ta nửa say, nửa tỉnh, để dũng cảm nhớ về quá khứ, Còn tiếng sáo là tác nhân chính, lay thức niềm tâm can sâu thẳm của Mị, để Mị nhớ về những ngày trước: yêu đời, hồn nhiên, ham sống. Tiếng sáo dập dờn, bừng lên trong Mị khao khát được đi chơi, và Mị đã hiện thực hóa nó bằng hành động. Mị vào nhà thay đồ chuẩn bị đi thì bị A Sử trói đứng lại. Dù bị trói buộc về thể xác những tâm hồn cô đã phiêu diêu sống cùng những ngày trước.
Lần nổi loạn thứ hai là trong đêm đông cứu A Phủ. A Phủ bị trói đứng, biết bao lần Mị đi sưởi chân tay mà không quan tâm. Chỉ khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy ra từ hốc mắt đen ngòm, lúc đó cô đã động long thương cảm. Đó là tình yêu thương từ những con người cùng khổ, sự đồng cảm, chia sẻ và yêu thương đã khiến Mị có một quyết định vô cùng bất ngờ đó là lấy dao giải cứu A Phủ. Sợi dây hữu hình đã được cắt đứt, A Phủ đã được cứu. Nhưng sợi dây vô hình là thần quyền vẫn trói dữ, nhưng trong một thoáng suy nghĩ cô đã một lần nữa cắt đứt sợi dây đó, giải cứu chính mình, đi theo A Phủ.
Con đường giải cứu bản thân, tìm lại niềm hi vọng sống của Mị không hề đơn giản. Nó được Tồ Hoài đặt trong vô vàn thử thách khắc nghiệt khác nhau để bản thân nhân vật phải tự vượt qua, cứu lấy chính mình. Mị và A Phủ dắt nhau bỏ trốn đi trong đêm tối, họ hai con người sau những tháng ngày giam cầm đã được tự do, rạch tan bóng tối, mở ra ánh sáng, tương laic ho chính mình.
Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước đi của hai nhân vật. Ông sung sướng tự hào biết bao khi họ đã vượt qua tăm tối tìm thấy lí tưởng, ánh sáng – tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời ông cũng vạch trần thối nát của chính quyền phong kiến miền núi – thể hiện giá trị hiện thực sắc nét.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - mẫu 2
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với ngòi bút gắn liền với hình ảnh làng quê và con người nông dân lao động. Ông có khả năng miêu tả chân thực cuộc sống của người nông dân nghèo khổ nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân, được rút từ tập “Con chó xấu xí”. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực tàn khốc của nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc khi ca ngợi lòng nhân ái, khát vọng sống và niềm tin vào tương lai của con người. Đây là một truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo, thể hiện sâu sắc tư tưởng của nhà văn.
Giá trị hiện thực của tác phẩm trước hết thể hiện qua việc tái hiện bức tranh xã hội Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Kim Lân đã dựng lên một khung cảnh ảm đạm, thê lương, nơi cái chết luôn rình rập con người. Những hình ảnh như “người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường” đã cho thấy mức độ khủng khiếp của nạn đói. Những người còn sống cũng không khác gì những bóng ma, “xanh xám như những bóng ma”, “đi lại dật dờ như những cái bóng”. Không gian tràn ngập âm thanh tang tóc với “tiếng quạ kêu thê thiết”, “tiếng khóc hờ”, hòa cùng mùi hôi thối của xác người, rác rưởi và khói bếp rấm. Đặc biệt, cảnh bữa cháo cám trong nhà Tràng đã phản ánh chân thực sự khốn cùng của con người trong nạn đói. Đây không còn là một bữa ăn mà là sự giằng co giữa sự sống và cái chết. Qua những hình ảnh ấy, tác phẩm đã phản ánh chân thực tình cảnh bi đát của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.
Bên cạnh đó, tác phẩm còn cho thấy con người trong cơn đói khát phải giành giật sự sống từng ngày. Tràng phải đi kéo xe thóc thuê để kiếm sống qua ngày, còn bà cụ Tứ dù đã già nhưng vẫn phải đi làm để duy trì cuộc sống. Sự đói khổ còn khiến con người trở nên rẻ rúng, mất đi giá trị và danh dự. Nhân vật người vợ nhặt là một minh chứng rõ ràng cho điều đó. Vì quá túng quẫn, thị đã chấp nhận theo không Tràng chỉ vì một bữa ăn. Chỉ với vài lời bông đùa và mấy bát bánh đúc, Tràng đã có thể “nhặt” được vợ, điều mà bình thường anh không bao giờ nghĩ tới. Chính Tràng cũng vậy, vì nghèo mà khó lấy vợ, nhưng lại cưới được vợ trong hoàn cảnh éo le. Qua đó, Kim Lân đã lột tả một cách xót xa thực trạng của xã hội: trong cơn đói khát, những giá trị thiêng liêng như tình yêu, hôn nhân cũng trở nên tầm thường và rẻ mạt.
Không chỉ phản ánh thực trạng bi thảm của xã hội, tác phẩm còn gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít. Chính sách cai trị tàn bạo của chúng đã đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng: “Đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”. Chính quyền thực dân không chừa cho người dân con đường sống, buộc họ phải chịu đói khát đến kiệt quệ. Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thu thuế, bà cụ Tứ tuyệt vọng thốt lên: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Câu nói ấy như một lời than thở về cuộc sống khốn cùng mà nhân dân đang phải chịu đựng. Bằng cách tái hiện lại một bức tranh đầy đau thương, Kim Lân đã lên án mạnh mẽ chính quyền thực dân phong kiến, đồng thời tố cáo sự vô nhân đạo của bọn áp bức bóc lột.
Tuy nhiên, giữa bóng tối của hiện thực, tác phẩm vẫn tỏa sáng với giá trị nhân đạo sâu sắc. Truyện ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người. Mặc dù nhân vật người vợ nhặt có vẻ như mất đi nhân phẩm trong cảnh đói khát, nhưng thực chất đó là sự thể hiện của bản năng sinh tồn mạnh mẽ. Thị không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để được tiếp tục sống, dù có phải theo không một người đàn ông xa lạ. Ở Tràng cũng vậy, anh không phải là kẻ ngờ nghệch, mà sâu thẳm trong anh là một khát vọng hạnh phúc bình dị. Dù nghèo, anh vẫn mong muốn có một mái ấm, một gia đình để nương tựa. Khát vọng ấy đã khiến anh quyết định cưu mang thị, bất chấp hoàn cảnh thiếu thốn.
Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện vẻ đẹp của lòng thương người. Tràng tuy nghèo nhưng sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho thị. Bà cụ Tứ dù nghèo khổ vẫn mở rộng lòng đón nhận con dâu, thương cảm cho hoàn cảnh của thị. Không chỉ dừng lại ở đó, dù rơi vào bước đường cùng, con người vẫn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp hơn. Người vợ nhặt nhắc đến đoàn người phá kho thóc như một tia hy vọng, gieo vào lòng Tràng những suy nghĩ mới mẻ. Trong đầu Tràng, hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới xuất hiện, báo hiệu một sự đổi thay. Đó không chỉ là sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật mà còn là sự thay đổi của cả một giai cấp.
Như vậy, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng một tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lý nhân vật chân thực và sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng đầy sức gợi. Tác phẩm không chỉ phản ánh nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào lòng nhân ái và khả năng vươn lên của con người. Qua đó, Kim Lân không chỉ bày tỏ sự cảm thương đối với số phận con người trong đói khổ mà còn lên án tội ác của thực dân phong kiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt - mẫu 3
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Ông có sở trường viết truyện ngắn và thường đi sâu vào cuộc sống chân thực của những con người nghèo khổ, cùng cực nhưng vẫn mang trong mình những phẩm chất đáng quý. Truyện ngắn “Vợ nhặt” được trích từ tập “Con chó xấu xí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm không chỉ phản ánh chân thực cuộc sống khốn khổ của người dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, ca ngợi tình người, niềm tin vào tương lai và khát vọng sống mãnh liệt.
Giá trị hiện thực của tác phẩm thể hiện rõ nét qua việc tái hiện lại nạn đói khủng khiếp năm 1945 – một trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử dân tộc ta. Hình ảnh những con người đói khát, tiều tụy, lê lết trong cơn đói được Kim Lân khắc họa một cách đầy ám ảnh. “Người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “người sống thì xanh xám như những bóng ma”, tất cả tạo nên một bức tranh ảm đạm và đau thương đến tột cùng. Không gian xóm ngụ cư cũng không khá hơn, bao trùm bởi tiếng quạ kêu thê thiết, những tiếng khóc hờ ai oán và mùi hôi thối của xác người, rác rưởi. Giữa bối cảnh đó, Tràng – nhân vật chính của truyện – xuất hiện với cuộc sống bấp bênh, kéo xe thuê kiếm từng bữa ăn qua ngày. Người mẹ già của anh, bà cụ Tứ, dù tuổi cao sức yếu vẫn phải đi làm thuê để nuôi thân. Cảnh nghèo khó càng trở nên xót xa khi trong ngày cưới của Tràng và người vợ nhặt, cả nhà chỉ có thể ăn bữa cháo cám đạm bạc. Những hình ảnh này cho thấy sự đói khát đã đẩy con người đến tận cùng của sự khốn cùng, ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.
Không chỉ phản ánh nạn đói, tác phẩm còn cho thấy sự rẻ rúng của con người trong hoàn cảnh bi đát ấy. Nếu như trong xã hội bình thường, việc dựng vợ gả chồng là một sự kiện quan trọng, được chuẩn bị chu đáo thì ở đây, hôn nhân lại trở thành một điều gì đó quá đỗi đơn giản. Người vợ nhặt – một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê quán – chỉ vì miếng ăn mà chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ. Tràng cũng vậy, một chàng trai nghèo khổ, không có gì trong tay, nhưng chỉ với vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc đã có thể “nhặt” được vợ. Điều đó cho thấy nạn đói đã làm thay đổi tất cả, khiến con người không còn quan tâm đến những chuẩn mực thông thường nữa, mà chỉ cần có cái ăn, có thể tồn tại là đủ. Đây là một hiện thực đau lòng mà Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực và đầy xót xa.
Bên cạnh giá trị hiện thực, “Vợ nhặt” còn thấm đẫm giá trị nhân đạo sâu sắc. Trước hết, đó là niềm cảm thương của tác giả đối với những số phận con người trong cơn đói khát. Kim Lân không chỉ miêu tả nỗi khổ của họ mà còn đồng cảm, trân trọng những cố gắng sinh tồn của họ. Người vợ nhặt, dù có vẻ chao chát, liều lĩnh, nhưng thực chất cũng chỉ là một con người đáng thương, đang tìm kiếm một con đường sống trong cảnh đói khát. Tràng, dù nghèo khó, vẫn không nỡ bỏ mặc người đàn bà xa lạ ấy, mà sẵn sàng đưa thị về làm vợ. Bà cụ Tứ, dù biết rằng việc có thêm một người trong nhà vào lúc này là gánh nặng, nhưng vẫn đón nhận nàng dâu mới với lòng bao dung, nhân hậu.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm còn ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt và ước mơ hạnh phúc của con người. Dù đói khổ, Tràng vẫn mong muốn có một mái ấm gia đình, có một người vợ bên cạnh. Người vợ nhặt, sau khi về làm dâu, cũng thay đổi hẳn, trở nên hiền dịu, chăm chỉ, thể hiện khát vọng được làm vợ, làm mẹ, được sống như một con người bình thường. Bà cụ Tứ, dù nghèo khó, vẫn động viên con trai và con dâu, nói về những dự định tương lai, về việc nuôi gà để mong ngày mai tươi sáng hơn. Những chi tiết này thể hiện rõ tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống của con người ngay cả khi họ bị đẩy đến bước đường cùng.
Đặc biệt, giá trị nhân đạo của truyện còn thể hiện qua niềm tin vào sự đổi thay của xã hội. Ở đoạn cuối truyện, khi người vợ nhặt nhắc đến đoàn người phá kho thóc và hình ảnh lá cờ đỏ xuất hiện trong suy nghĩ của Tràng, ta thấy được một tia sáng hy vọng. Dù tác giả không trực tiếp nói ra, nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được một tương lai mới đang mở ra trước mắt họ, nơi mà những con người nghèo khổ như Tràng và vợ có thể thoát khỏi cảnh sống lay lắt, bần cùng.
Như vậy, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm không chỉ phản ánh chân thực nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện lòng thương người, trân trọng phẩm chất tốt đẹp của những con người nghèo khổ. Với nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo, miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc nhưng giàu sức gợi, Kim Lân đã khắc họa thành công một bức tranh xã hội đầy đau thương nhưng vẫn ánh lên tình người và niềm tin vào ngày mai.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt
Phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều