10+ Phân tích tác phẩm Đời thừa (điểm cao)
Phân tích tác phẩm Đời thừa điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Phân tích tác phẩm Đời thừa (điểm cao)
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đời thừa
1. Mở bài
- Truyện ngắn Đời thừa đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 409 ra ngày 4/12/1943.
- Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.
2. Thân bài
a) Nhân vật Từ
- Ngoại hình: Nam Cao rất ít tả ngoại hình của nhân vật Từ. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ - một người đàn bà bạc: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại... Cái bàn tay lủng củng rặt những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc... Đó là hình ảnh một thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.
- Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả.
- Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi.
- Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: Không!... Anh chỉ là một người khổ sở... Chính vì em mà anh khổ...". Nàng ru con qua dòng nước mắt... cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hi sinh.
- Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ bạc mệnh và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!
b) Nhân vật Hộ.
* Hộ là mội con người giàu tình thương
- Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ... Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm: Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.
- Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện Phí đi một vài năm để kiếm tiền lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, hôn hít chúng vồ vập. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo, sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đàn con thơ cả tháng đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.
- Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời phải chứa đựng được một cúi gi lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.
* Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng
- Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, anh băn khoăn nghĩ đển một tác phẩm nó sẽ làm mờ các tác phẩm cùng ra một thời. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ cho in cuốn văn vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương. Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn buồn lắc đầu tự bảo: Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!
- Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Hộ điên người lên phải xoay tiền nhưng hắn bảo khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lẩy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi.
- Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: đôi lông mày rậm…châu đầu lại với nhau... cái mặt hốc hác...
- Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kị say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi vật một nhát cho chết cả. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Trở thành bê tha hắn ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường, về đến nhà thì đổ xuống giường như một khúc gỗ...ngủ say như chết! Có điều lạ, Hộ rất tỉnh khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, nước mắt hẳn bật ra nhưu một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở… Rồi hắn tự lên án mình chỉ là một thằng… khốn nạn!
- Và câu hát ru còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi ước mơ, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gai đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người với người.
- Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.
3. Kết bài
- Truyện Đời thừa là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tính nhân đạo và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện Đời thừa đến Độ trong Đôi mắt cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 1
Nam Cao là một nhà văn lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đem lại những giá trị lớn cho kho tàng văn chương Việt Nam. Tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” mà ông viết vào năm 1943 là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của ông.
Tác phẩm đã thể hiện rõ hình ảnh của những trí thức nghèo. Với những hoài bão lớn lao đã bị nhấn chìm bởi chính cái nghèo đeo bám. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao. Phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao. Tác phẩm “Đời thừa” nói về cuộc sống của một nhà văn, một trí thức nghèo. Nhà văn đó là một người có trách nhiệm với gia đình. Yêu vợ thương con và là một con người trung thực. Anh luôn ấp ủ trong mình những hoài bão lớn. Và thực sự nghiêm túc về công việc văn chương của mình. Anh có mong muốn viết nên một tác phẩm để đời. Một tác phẩm có thể làm lu mờ những tác phẩm khác cùng thời, và tác phẩm đó sẽ đoạt giải Nobel.
Nhưng một cái thực tế thực sự phũ phàng. Cuộc sống này dường như đã nhấn chìm giấc mơ ấp ủ của anh. Một cảnh đời với bao buồn lo suy nghĩ về cuộc sống. Làm quần quật suốt ngày để kiếm tiền, nhưng vẫn không đủ tiền để nuôi gia đình. Không có tiền để chạy chữa cho đàn con lúc ốm đau bệnh tật. Một hình ảnh người đàn ông, một người chồng, một người cha có lòng tự trọng rất cao. Nhân vật Hộ, được xây dựng nên thực sự là một người đàn ông mẫu mực trong cái xã hội đó. Anh rất khổ tâm trước cảnh cơ cực của gia đình, buồn rầu trước cảnh nhà túng thiếu. Và anh cũng thực sự buồn rầu khi vợ mình là Từ. Một người phụ nữ đau khổ với người tình cũ đã đến bên anh nhưng lại phải cùng anh chịu đựng sự cực khổ, vất vả lầm lũi.
Cuộc sống khổ cực, túng thiếu khiến cho Hộ không thể nào có thời gian viết lách văn chương một cách thanh thản. Và chính vì thế, Hộ viết nhanh, viết cẩu thả. Những tác phẩm văn của anh không được chỉnh chu, thậm chí là người ta đọc xong đã quên luôn. Hộ cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình. Cảm thấy thực sự tủi nhục vì nghĩ đến những hoài bão lớn lao của mình trước đây.
Có thể nói rằng trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng dường như ở Hộ là một nhà văn. Hộ như đã càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, như không có lối thoát, một bi kịch thật sự. Văn sĩ Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Có lẽ chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình. Gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Chính vì vậy cho nên, tác phẩm đã thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao. Như cũng đã đề cập trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm. Đó chính là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Và chính với văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay cả.
Và để rồi khi Hộ đã phải viết cẩu thả cho nhanh những tác phẩm không ra sao để có thể có thêm tiền lo cho cuộc sống. Chính cái nghèo đói đã là Hộ trở thành một “kẻ đê tiện” trong văn chương. Và đây cũng chính là quan niệm của nhà văn Nam Cao gửi gắm vào đó. Người đọc như cũng đã chắc chắn đó cũng là mong ước. Là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương đối với Hộ hay chính là nhà văn Nam Cao không chỉ là nghề mà còn là nghiệp. Một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương. Và cả về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức. Là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người.
Văn chương dường như đã được xem là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Ta như đã có thể thấy tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống ngày nay. Làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau. Nhà văn Nam Cao dường như cũng đã phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương. Xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
Nam Cao cũng đã khẳng định quyết liệt và rất rõ ràng viết văn. Làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo, và đặc biệt là phải không ngừng mang đến cho người đọc một cái gì lạ. Và đó chính là một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết rằng “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu. Biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Có thể nói rằng đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Là nhà văn là nhà nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề” thì tất nhiên phải am hiểu về kĩ thuật. Phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó. Chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc rồi,… Nhưng dường như đối với các nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói.
Không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn. Làm theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong”. Dường như đó chính là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Có lẽ đó chỉ có thứ văn chương “gan ruột”. Không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, đặc biệt và quan trọng hơn thì trong lĩnh vực văn chương. Chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nếu như mà không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, và không có được một cách nhìn mới. Và lại không tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật. Nam Cao như trong lúc này cũng đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Dường như những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua. Lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường. Những ý nghĩ cao quý và lại quá tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút. Dường như cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói. Nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống. Nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa.
Tác phẩm nào của Nam Cao luôn luôn đã khiến cho mọi người ta chú ý hơn. Nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình. Và phải như sống có ý thức hơn, nhân ái hơn. Kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác. Và đã lại tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như là một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương vậy. Tác phẩm “Đời thừa” sau khi đọc xong, người đọc cảm thấy nó có một kết cấu rất tự nhiên. Một câu truyện ngắn không có cốt truyện và những sự việc hầu như diễn ra hầu như không có gì.
Nam Cao đã miêu tả về quá khứ bất hạnh của Từ. Nói về quá trình gặp gỡ nên duyên vợ chồng giữa Hộ và Từ. Miêu tả về cuộc gặp gỡ với bạn làng văn của Hộ. Nhưng xoáy sâu vào câu truyện đó chính là viết nên nỗi khổ tâm của một nhà văn nghèo đó là Hộ. Chính vì cuộc sống nghèo khổ mà đã không thể thực hiện được những nguyện vọng lớn lao của cuộc đời mình. Hộ đã không thể hoàn thành nổi một tác phẩm văn chương nào thực sự có giá trị.
Lẽ ra với một nhà văn yêu nghề, tâm huyết như Hộ. Mọi nỗ lực đều sẽ hướng tới việc viết văn, dành hết tâm huyết cho nghề viết văn. Thế nhưng cảnh đời cơ cực, một người chồng, một người cha bắt buộc phải lo lắng cho miếng cơm manh áo gia đình. Nhưng trong cái xã hội đó, việc nuôi sống cả gia đình với một người nghèo khó lại càng khó. Tất tưởi vì cuộc sống mưu sinh, luôn luôn bị cái cảnh nghèo quấy rầy, sự túng quẫn. Một trí thức cũng chính vì thế mà trở nên thô bỉ hèn kém, những mộng tưởng và những khát khao dần cũng lụi tàn.
Người đọc có thể nhận thấy tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo. Vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và bên kia là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình. Đó là sự vất vả và cả những thiếu thốn hàng ngày. Có thể thấy đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ. Và còn nằm ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Những sự mới mẻ, những chiều sâu về suy nghĩ. Với cách tạo hình nhân vật, sự đơn giản trong lối văn chương đã khiến cho tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao diễn ra một cách rất tự nhiên. Tạo ra một sức hút đối với người đọc. Khi đọc “Đời thừa” của Nam Cao dường như người đọc sẽ có những cảm nhận vô cùng sâu sắc về những số phận nghèo khổ của tri thức trong xã hội xưa. Và những cảm thông sâu sắc về những số phận này.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 2
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng được một tác phẩm thật có giá trị "sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời", thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình. Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, để kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại "hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn". Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình.
Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khổ cả về vật chất và tinh thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự. Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cập trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương.
Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay:
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, mà "Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn"
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Nam Cao cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có"!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết "hành nghề", phải am hiểu về kĩ thuật, phải "khéo tay" ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc v.v... Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo "đơn đặt hàng" của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là "Thôi thúc bên trong" là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh... Chỉ có thứ văn chương "gan ruột", không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao những người cầm bút chì viết được những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, "diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi", chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa. Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời thừa theo một nghĩa xác định. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã hội. Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn.
Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, "độc thoại bên trong". Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì những suy nghĩ chân thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp, khát khao một cuộc sống trong đó con người biết thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhốp, mong viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và cũng như Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta "bất an" như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt truyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm của Hộ vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quẫn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương. Có thể nói nhân vật trong Đời thừa là một nhân vật – tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra.
Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 3
Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, ông đi sâu vào chủ nghĩa hiện thực, lột tả hết những cái khốn khổ của lớp dân lành trong xã hội cũ từ người nông dân cho đến người trí thức. Hầu hết những tác phẩm ấy đều có cốt truyện là tấn bi kịch của cuộc đời nhân vật chính, tuy nhiên vẫn thấm đượm tính nhân văn sâu sắc trong từng câu chữ, đặc biệt là tấm lòng yêu thương đồng loại và Đời thừa chính là một tác phẩm như vậy.
Nam Cao (1917-1951), quê tại tỉnh Hà Nam, sống trong cảnh đất nước lầm than, đâu đâu cũng thấy cảnh nghèo đói tang thương, với nền tảng nghệ thuật vị nhân sinh, Nam Cao sớm ý thức được tinh thần Cách mạng, ông vừa tham gia chiến đấu vừa viết văn với vai trò là một nhà báo ở chiến trường. Trong đời viết văn của mình Nam Cao có rất nhiều quan điểm nghệ thuật đậm tính nhân văn và sâu sắc, ấn tượng nhất là câu nói: "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời". Rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống của con người, đi sâu vào cái bi kịch khổ đau để mà thấu hiểu cảm thông. Những tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao phải kể đến Chí Phèo, Đời thừa, sau cách mạng tháng tám thì có Đôi mắt, tác phẩm đánh dấu sự thay đổi trong cách nhìn nhận và quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Đời thừa được viết và đăng báo lần đầu tiên vào năm 1943, đây là một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao nói về số phận của giới tri trức trong những năm trước cách mạng, được ví như một tác phẩm văn học dành cho cả loài người bởi nó đã vượt qua khỏi mọi ranh giới của lòng bao dung giữa người với người, đấy là thứ tình cảm đáng trân quý biết bao. Càng khẳng định được công việc làm nghệ thuật không phải chỉ làm qua loa đại khái cho có lệ, mà đó là cả một công trình dày đặc tâm sức mà người nghệ sĩ phải bỏ ra bao gồm cả máu và nước mắt. Nếu viết văn mà cẩu thả thì đó gọi là vô lương tâm, là bất lương, là đê tiện bởi tác phẩm là đứa con tinh thần bất diệt của nhà văn. Tất cả những điều kể trên đều được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa mà nhân vật chính là Hộ, một trí thức có niềm đam mê văn học nhưng lại phải đi ngược lại với cái mong muốn của mình vì phải kiếm tiền cưu mang vợ con, điều đó đã đẩy Hộ vào tấn bi kịch cuộc đời, vào một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.
Câu chuyện mở đầu bằng ánh mắt của Từ, vợ Hộ nhìn anh bằng ánh mắt rụt rè mà trong đó là niềm thương yêu sự nhẫn nhịn, hình ảnh nhân vật Hộ hiện lên thật rõ nét, điều ấy cũng phần nào bao quát được cuộc sống hiện tại của Hộ. Đôi mày rậm chau lại, trán có nếp nhăn, đôi gò má cao bóng nhẫy, mũi cũng cao mà thẳng tắp, đôi mắt sáng hơi lồi. Tất cả những nét đó đem đến cho Hộ một vẻ "hốc hác" và "trông khắc khổ đến thành dữ tợn", đến cả người hàng ngày đầu ấp tay gối với anh cũng thấy sợ "Từ thấy sợ".
Nói đến Từ người phụ nữ có số phận bất hạnh, từng khóc cạn nước mắt, định chết cùng đứa con mới đẻ khi bị kẻ nhân tình sở khanh ruồng bỏ. Nhưng đời Từ đã chuyển sang một hướng khác, khi được Hộ một chàng trai tốt bụng lại yêu văn chương cưu mang, nhận làm vợ và trở thành một người mẹ, người vợ cam chịu, nhẫn nhịn. Nam Cao so sánh tình yêu của Từ dành cho chồng gần như tình cảm của một con chó đối với chủ nhân của nó. "Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm", suốt mấy năm trời Từ chưa một lần nào có ý nghĩ khác, hay cãi lại chồng, bởi đối với Từ, Hộ không chỉ là người cứu vớt cuộc đời mình ra khỏi vũng bùn lầy mà còn là người mà Từ phải mang ân suốt đời, thay cho cả mẹ già và con thơ của mình. Từ không có gì cả, Từ chỉ có đôi bàn tay trắng, sự dịu dàng đúng mực và lòng biết ơn sâu sắc nên dù có phải làm nô lệ cho Hộ, cô cũng chẳng từ nan.
Hộ thế nhưng cũng không sung sướng được bao lâu, bởi sau cái hành vi đầy nhân đạo của mình, cùng với tình yêu của vợ thì Hộ lại rẽ vào một con đường khác và đó không phải là lý tưởng của anh. Hộ nghèo, đúng vậy nhà văn thuở trước cách mạng làm gì có ai giàu, may mắn lắm thì đủ bữa ăn, bữa mặc, nuôi thân còn khó huống chi đến việc nuôi cả một gia đình, vừa vợ vừa mấy đứa con thơ dại đang chờ Hộ mang tiền về. Từ đây Hộ bước ra khỏi con đường viết văn chân chính với những tác phẩm tràn đầy tâm huyết, từ bỏ thứ hoài bão lớn lao mà anh từng theo đuổi cả tuổi trẻ, để viết những thứ văn chương mà theo anh là "toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi".
Hộ thấy xấu hổ đỏ cả mặt khi đọc lại những đoạn văn ấy, Hộ tự thấy sao mình khốn nạn quá, bất lương quá, sự cẩu thả trong văn chương khiến Hộ thấy mình thật đê tiện. Suốt mấy năm trời Hộ không có một tác phẩm nào ra hồn, anh tự thấy mình thật thừa thãi trong giới văn chương nơi mà không cần "những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho" mà chỉ dung nạp những kẻ biết tìm tòi ra cái mới. Hộ nghĩ thế thế và thấy sao đau đớn quá, những suy nghĩ tự trách cứ mãi quẩn quanh trong cái đầu óc của một người đàn ông khắc khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền và ti tỉ những thứ khác cho vợ con vừa phải vật lộn với nỗi đau trái lương tâm nghề nghiệp. Nhưng Hộ có thể quay lại với hoài bão của mình mà bỏ vợ con nheo nhóc được hay sao?
Lương tâm và trách nhiệm của một người chồng người cha không cho phép anh làm như vậy, Hộ tự an ủi mình bằng suy nghĩ cố gắng làm vài ba năm kiếm tiền cho đủ vốn để Từ buôn bán nhỏ, rồi anh sẽ rảnh rỗi để thực hiện tiếp ước mơ văn chương một cách tử tế nhất. Nhưng cuộc sống luôn nghiệt ngã như vậy khi mà những đứa con của hai vợ chồng cứ lần lượt ra đời, chúng cứ liên tục quấy khóc, bệnh vặt liên miên, khiến Từ gần như không còn đủ sức để lo thêm việc nào nữa. Nhà cửa ồn ào, khiến Hộ không thể tập trung mà viết một thứ nào cho ra hồn, đã nhiều lúc Hộ vì thấy bực dọc và uất ức trong lòng mà "đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn". Hộ ban đầu chỉ đi tìm mấy người bạn bàn về văn chương, uống đôi cốc bia cốc chanh giải khát, rồi đến khi đã vơi hết nhọc nhằn, khó chịu Hộ lại về nhà trong nỗi buồn miên man.
Nhưng dần dà Hộ đã thay đổi, Hộ đi ra ngoài và về nhà trong cái say mèm chẳng biết trời trăng rồi đổ ập xuống giường thiếp đi, Từ ở nhà đợi chồng phải rón rén lừa con ngủ mới dám thay áo quần và đắp chăn, kê gối cho chồng. Đấy là những hôm Hộ đã ngủ, còn có những buổi chẳng hiểu cớ sự gì, Hộ cũng về nhà trong men say rồi nhìn gườm gườm nhìn vợ, nói những lời như dọa trẻ con, Từ không dám nói lời nào, bởi cô nghĩ âu tất cả cũng do mình. Hộ dọa đuổi, dọa giết, chắc có lẽ vì túng quẫn và đau khổ quá mà Từ đã thốt ra những lời như vậy, đọc vào đôi khi ta cảm thấy đó không phải là lời thật lòng của Hộ, phải chăng Hộ chỉ đang đùa, đùa cho vơi bớt cái khổ tâm sầu não của anh, bởi ngữ điệu của câu nói trong lúc say khướt ấy chẳng mang tính điên cuồng nào cả, tưởng như Hộ chỉ đang dọa nạt mấy đứa con nít xíu xiu chưa biết gì.
Thế nhưng lúc tỉnh cơn say Hộ lại trở về là người cha người chồng mẫu mực, thương yêu vợ con như chưa từng có những lời nói hôm qua, riết rồi cũng thành quen Từ không giận nổi nữa. Bởi chính Từ cũng tự nghĩ rằng bi kịch của Hộ chính là do Từ mang đến, nhiều lần Từ muốn bồng con đi thật xa, có lẽ thế thì Hộ sẽ hết khổ, sẽ trở lại là chàng trai tươi sáng năm nào, chứ không phải gã đàn ông khắc khổ, rượu chè như bây giờ. Nhưng cái thứ tình cảm mềm yếu trong Từ đã giữ chân không cho Từ đi lấy nửa bước và Từ lại tiếp tục ở lại ngoan ngoãn chăm sóc chồng con bằng một tình yêu và sự hi sinh trung thành nhất. Từ nhớ đến lúc Hộ hôn hít, bế bồng các con, lúc Hộ xanh mặt thức đêm chăm sóc mình ốm bệnh, Từ nhận ra cả hai vợ chồng đều yêu và cần nhau đến mức nào, như vậy Từ càng không thể bỏ đi được, Từ sẽ ở lại đến tận cùng với chồng với con, đói rách cũng chẳng sao chỉ cần được ở bên nhau.
Câu chuyện lại tiếp tục tiến vào cái vòng luẩn quẩn của nó khi Từ nhắc đến tiền nhà, Hộ lại tỏ ra khó chịu, bởi biết bao nhiêu thứ cần đến tiền, mà tiền thì đã hết từ hôm mồng 10 đầu tháng. Hộ ân hận vì mình đã tiêu pha quá trớn để vợ con phải nheo nhóc, thậm chí đói, thế nên anh quyết tâm hôm nay lấy được tiền lương thì sẽ về thẳng nhà, ăn cơm với vợ con, mua thêm chút đồ ăn nữa và cứ thế Hộ nằng nặc đòi vợ phải đợi mình về ăn cơm. Thế rồi mọi chuyện lại chẳng được như Hộ nghĩ anh lại tiếp tục lao vào cuộc nhậu với bạn bè của mình, quên béng đi rằng vợ con anh đang háo hức chờ cha về trong mỏi mòn. Sáng hôm sau Hộ thức dậy tại nhà, anh giật bắn mình dáo dác đi tìm vợ, Hộ sợ Từ bỏ đi mất, bởi hình như anh lờ mờ nhớ ra hôm qua mình đã đánh và đuổi cả Từ đi nữa.
Thật may Từ vẫn ở nhà, ôm con thiếp đi trên chiếc võng, lúc này Hộ ân hận biết bao nhiêu, sao anh lại có thể làm như thế với người vợ tào khang chân yếu tay mềm, người chưa từng cãi anh một lời mà chỉ biết vâng dạ chăm sóc cho cha con anh ngày này qua tháng khác. Hộ khóc, khóc vì bất lực trước cuộc sống, khóc vì thương vợ cũng khóc cho cái bi kịch trái ngang của cuộc đời mình, anh đã làm khổ mình cũng làm khổ cả vợ con bởi cái bản ngã cái tự trách đầy tiếc nuối về hoài bão xưa kia. Thế mới nói con người chỉ thực sự làm tốt khi họ hoàn toàn chú tâm vào chúng, còn Hộ anh vừa muốn sống cho lý tưởng vừa muốn sống cho thực tế (kiếm tiền), mà hai thứ ấy nào có dung hòa được với nhau. Cuối bài lời ru con của Từ đã dấy lên nhiều suy nghĩ: "Ai làm cho gió lên giời, Cho mưa xuống đất, cho người biệt li; Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ, Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân..."
Cuộc sống đau khổ của vợ chồng Hộ có lẽ nguồn cơn to lớn nhất ấy là bối cảnh đất nước những năm trước cách mạng, cái xã hội ấy đã kìm kẹp người nông dân và người trí thức khiến họ phải sống trong kiếp vật vờ, đầy bi kịch, tiêu biểu là nhân vật Hộ, một trí thức với nhiều hoài bão ước mơ, nhưng cuối cùng vì sự khốn khó xuất phát từ tấm lòng thương người của mình mà phải đau khổ.
Truyện ngắn "Đời thừa" là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nam Cao về đề tài hiện thực xã hội trước Cách mạng tháng 8, năm 1945, ở đó ta thấy được một nghịch lý rất lạ, lòng nhân đạo của nhân vật cũng chính là sợi dây dẫn đến bi kịch cho chính cuộc đời họ, rồi từ trong cái bi kịch ấy ta lại thấy hiện lên những thứ tình cảm khác, ấy là tình vợ chồng, tình cha con, tình người. Và có lẽ ấn tượng nhất ấy là tấm lòng yêu văn chương sâu sắc đến day dứt của nhân vật Hộ, nhấn mạnh một quan điểm nghệ thuật rất tâm đắc của Nam Cao: Văn chương không được phép cẩu thả, cẩu thả là vô lương tâm, là đê tiện.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 4
Đời thừa ‘là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Tác phẩm. không chỉ thành công về mặt nội dung mà đặc biệt thành công về mặt nghệ thuật, nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nét độc đáo của Nam Cao khi ông xây dựng tính cách nhân vật là việc nhà văn để nhàn vật vào những tình huống bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm dữ dội và sâu sắc, Hộ – nhân vật chính của Đời thừa – cũng được xây dựng theo bút pháp như vậy. Trong số những chi tiết tạo tính cách của Hộ thì chi tiết về giọt nước mắt Hộ là chi tiết mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhất. Đây là chi tiết ‘đắt’ nhất tác phẩm, thể hiện sự tinh tế và năng lực sở trường của nhà văn trong việc tìm kiếm và phát hiện những góc khuất của nội tâm con người.
Đời thừa chủ yếu tập trung xoay quanh tấn bi kịch tinh thần của văn sĩ Hộ: đó là bi kịch nghề nghiệp và bi kịch tình thương. Tấn bi kịch ấy sẽ mãi đeo đuổi Hộ cho đến khi giọt nước mắt ở cuối tác phẩm trở thành sự giải thoát cho anh. Trong một truyện ngắn khác cũng viết về đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao đã dẫn lời của một nhà văn Pháp như sau: Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một tấm kính biến hình vũ trụ. Tác phẩm ấy được Nam Cao đặt tên là Nước mắt. Giọt nước mắt của những người trí thức đương thời trở thành nỗi ám ảnh đối với nhà văn, để ông đưa vào tác phẩm như một chi tiết nghệ thuật độc đáo ở Đời thừa, giọt nước mắt của Hộ là sự tự thức tỉnh, là sự cứu rỗi anh trước những sa ngã. Điều ấy có ý nghĩa quan trọng đối với nhân cách con người.
Hộ là một nhà văn trẻ, nghèo nhưng có hoài bão, có lí tưởng về nghề nghiệp. Anh bỏ qua những lo lắng về vật chất để chăm chút cho sự nghiệp của mình. Anh ao ước có một tác phẩm để đời, được giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng. Và đáng lẽ Hộ sẽ có cơ hội để thực hiện ước mơ của mình nếu như anh không có gánh nặng gia đình. Ấy là khi Hộ cưới Từ về làm vợ và những đứa con lần lượt ra đời. Hộ có cả một gia đình phải gánh trên vai. Anh buộc phải thay đổi cách viết để lo cho cuộc sống gia đình. Anh phải viết vội, viết cho nhanh mà không có thời gian sửa chữa. Đó là một thứ văn nhạt nhẽo, vô vị và khiến người ta đọc một lần rồi quên ngay.
Hộ có thể sẽ không quan tâm đến điều ấy nếu như anh là người vô trách nhiệm. Nhưng tiếng nói của một người cầm bút chân chính khiến anh day dứt, đau đớn. Anh tự sỉ vả mình, tự coi mình là một kẻ ‘khốn nạn’, một kẻ ‘bất lương’, bởi cách viết cẩu thả ấy là vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp của anh. Song hiện thực cuộc sống không cho anh lựa chọn nào khác. Chuyện cơm áo muôn đời không đùa với những nhà văn nghèo như anh. Anh buộc phải hi sinh khát vọng nghề nghiệp để thực hiện trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình. Bi kịch của Hộ là ở chỗ hiện thực cuộc sống không cho phép anh sáng tạo nghệ thuật, đè bẹp ý chí, mài mòn ước mơ của một người sẵn sàng hiến dâng cho nghệ thuật như anh.
Bi kịch nghề nghiệp đã khiến Hộ vô cùng đau đớn, nhưng anh lại còn phải chịu đựng một bi kịch thứ hai, đó là bi kịch tình thương. Đối với Hộ, tình thương là nguyên tắc sống, là lẽ sống cao đẹp nhất. Nó là ranh giới phân biệt giữa con người và loài vật. Anh coi trọng triết lí sống của mình, rằng kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh phải là kẻ nâng đỡ người khác trên đôi vai mình. Chính vì vậy, anh đã cúi xuống nỗi đau của một người phụ nữ bất hạnh như Từ, bảo tồn danh dự và mang lại hạnh phúc cho Từ. Đấy là một việc làm cao cả mà người khác khó có thể làm được. Tuy nhiên, để nuôi sống gia đình, anh phải hi sinh nghệ thuật. Và trong anh mơ hồ hiểu rằng cái gia đình nhỏ bé ấy là nguyên nhân của sự đổ vỡ nghề nghiệp mà anh đang gánh chịu. Vậy là, vô tình, mọi uất ức trong anh, lúc thì dồn nén. lúc thì bùng lên không gì ngăn nổi. Anh uống rượu, anh tiêu tiền quá mức, anh cáu giận vô cớ. có lúc quát mắng, đánh đuổi vợ con. Hộ đang dần từng bước vi phạm vào nguyên tắc sống. Những việc làm, những hành động của anh đã không còn là biểu hiện của một người coi trọng tình thương nữa rồi.
Hộ cứ mãi như thế nếu không có lần anh mải đi theo bạn và uống rượu say. Khi tỉnh dậy, anh giật mình sợ hãi khi nhớ ra hôm qua hình như mình đã đuổi vợ con đi. Anh đưa mắt tìm kiếm và nhìn thấy Từ đang ôm con ngủ trên võng. Hộ tuôn trào nước mắt khi nhìn khuôn mặt và dáng hình mềm yếu gầy gò của vợ. Anh nhận ra sai lầm của mình. Không, gia đình không phải là nguyên nhân mọi nỗi bất hạnh của anh. Đấy là nơi anh sống để thực hiện nhân cách con người. Giọt nước mắt ấy không phủi là sự yếu đuối nhất thời trong Hộ mà nó nâng đỡ, bảo vệ nhân cách của anh. Hiện thực cuộc sống không cho phép Hộ thực hiện ước mơ nghề nghiệp, nhưng anh vẫn được làm người theo nghĩa đầy đủ. Nhưng nếu anh tiếp tục vi phạm cả vào nguyên tắc sống thì anh sẽ vượt qua ranh giới của con người. Giọt nước mắt đã thanh lọc tâm hồn anh, cứu anh thoát khỏi những sai lầm bế tắc. Sự thức tỉnh, sám hối ấy chính là quá trình tự đấu tranh của người trí thức trước những cám dỗ của cuộc đời.
Điền trong Nước mắt hay Hộ trong Đời thừa là minh chứng cho số phận của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời. Giọt nước mắt của những con người ấy trở thành một ‘mã’ nghệ thuật để nhà văn thể hiện ý nghĩa tác phẩm. Trở đi trở lại trong tác phẩm Nam Cao là vấn đề người nghệ sĩ chân chính trước hiện thực cuộc sống, và người ta thấy trong đó thấp thoáng cả hình ảnh của bản thân nhà văn. Qua đó nhà văn đã lên án tố cáo xã hội đương thời không tạo điều kiện cho người trí thức thực hiện ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mình, không cho họ có cơ hội được đem tài năng cống hiến cho xã hội, khiến họ phải sống kiếp sống mòn, một cuộc đời thừa.
Nói tóm lại, chi tiết giọt nước mắt của nhân vật Hộ không chỉ là chế tiết để nhà văn thể hiện tâm lí nhân vật mà nó còn chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc. Đối với tác phẩm của Nam Cao, nước mắt không phải là biểu liên của những yếu đuối, đớn hèn, ủy mị mà nó là vũ khí bảo vệ danh dự và nhân phẩm của con người. Chính điều đó đã làm nên một cá tính sáng tạo riêng của nhà văn, một gương mặt không thể trộn lẫn.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 5
Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số 490 ra ngày 4/12/1943. Qua hình ảnh nhân vật Hộ, tác giả thể hiện niềm cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.
Hộ là một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ – một cô gái lỡ làng, bị tình nhân phụ – Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì giờ của hắn. Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc văn mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí đi vài năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có lúc, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.
Vốn thương vợ con thế nhưng rồi Hộ tìm đến rượu, thay đổi dần tâm tính. Hắn say rượu, ngủ say như chết. Có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con Từ ra khỏi nhà, đòi vật một nhát cho chết cả! Nhưng sáng hôm sau tỉnh rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn hứa chừa rượu… nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò vừa buồn cười vừa đáng sợ như lần trước.
Hộ rất yêu vợ con. Khi Từ ốm đau, Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm săn sóc thuốc thang cho vợ. Đi xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít các con, cảm động đến ứa nước mắt. Hắn độc sách say mê, đọc và nghiền ngẫm, hắn thổ lộ “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng đọc và hiểu được một câu văn hay. Có lần, trước khi đi lấy tiền nhuận bút, hắn hứa mua bánh và thịt quay về cho con. Nhưng hắn gặp Trung và Mão, bạn văn, bao nhiêu tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà. Lần này hắn đánh Từ, đuổi vợ con ra khỏi nhà lúc đang đêm. Gần sáng, tỉnh rượu, hắn nhớn nhác đi tìm Từ. Thấy Từ xanh xao ôm con thơ đang thiếp đi trên võng. Hắn thương cảm, ngắm nghía mặt Từ lâu lắm, rồi khẽ thở dài, lắc đầu ái ngại, dịu dàng nắm lấy tay Từ, rồi khóc nức nở. Từ tỉnh giấc, choàng tay ôm lấy cổ chồng. Nước mắt Từ giàn giụa. Nức nở Từ nói: “… Chính vì em mà anh khổ!”… Giật mình, con thơ khóc. Từ vừa dỗ con, vừa cất tiếng ru qua làn nước mắt:
“Ai làm cho khói lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”
Nhân vật Từ tuy không được nhà văn chú trọng khắc họa, nhưng chỉ với một vài lần xuất hiện, Từ để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.Về ngoại hình, chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam Cao rất ít tả ngoại hình. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại,… Cái bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng, xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.
Từ lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.
Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó dối với người nuôi”.
Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không!… Anh chỉ là một người khổ sở… Chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt… cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hy sinh.
Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh” và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!
Hộ là một con người giàu tình thương. Hộ đã hành động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn”.
Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.
Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng. Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, “hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn”, “là một kẻ bất lương!”. Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”
Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”. “Hộ điên người lên vì phải xoay tiền” nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.
Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt hốc hác…”.
Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, “làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước”. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ… ngủ sau như chết!“. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”. Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là… một thằng… khốn nạn!”
Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu đọc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.
Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.
Truyện ngắn “Đời thừa”, là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tình nhân đạp và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện “Đời thừa” nói lên một quan niệm văn chương rất tiến bộ của Nam Cao: Văn chương phải vì con người, làm cho người gần người hơn. Hộ như một nhân vật tự truyện, được xây dựng rất chân thực và sắc sảo, cho thấy cái tài của Nam Cao trong kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật. Từ Hộ trong “Đời thừa” đến “Độ” trong “Đôi mắt” cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 6
Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu về các tác phẩm đề cao giá trị nhân văn trong cuộc sống trước số phận của con người trí thức trước Cách mạng Tháng tám. Bản chất tồi tàn của xã hội thời ấy đã được miêu tả rõ nét qua bi kịch nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa.
Hộ là nhân vật được Nam Cao xây dựng với một cuộc đời đầy tấn bi kịch. Bi kịch đầu tiên diễn ra khi Hộ vốn là một con người trí thức có ý thức sâu sắc về cuộc sống xung quanh, anh muốn tự khẳng định tài năng và nâng cao cuộc sống bằng sự nghiệp văn chương của bản thân, nhưng lại bị xã hội tăm tối vùi dập, từ chối.
Đã thế, Hộ còn bị cái nợ “cơm áo, gạo tiền” ghì sát đất khiến anh lâm vào cuộc sống bế tắc, vô dụng, túng quẫn, biến anh trở thành một kẻ chịu cảnh sống kiếp đời thừa với văn chương.
Nam Cao không đặc tả nhiều về hình dáng của nhân vật Từ, nhưng thông qua một số dòng văn ngắn của ông, có thể thấy được Từ là một người đàn bà đẹp nhưng bạc mệnh, phải sống cuộc đời khổ sở, nghèo túng nên nhan sắc sớm bị tàn phai với: Da mặt nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại... Cái bàn tay lủng củng rặt những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc...
Thông qua miêu tả của tác giả hiện lên hình ảnh một người thiếu phụ với nét tiều tụy vì muộn phiền, lo toan, sống thiếu thốn về vật chất, nên không còn giữ được nét đẹp thời con gái. “Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho, đến khi nào bao nhiêu thịt đểu chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả.” Một người đàn bà thống khổ đến mức chỉ còn cách nhịn đói, ôm con mà khóc, khóc đến khi cạn kiệt sức lực, đến khi máu thịt đều chảy thành nước mắt rồi cả chị, đứa con, lẫn người mẹ mù đều cùng được giải thoát khỏi kiếp sống đọa đày này.
Nhân vật từ được tác giả miêu tả là người hội tụ bao nhiêu đức tính đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ hết mực thương con. Chị luôn chịu thương chịu khó, nhưng vẫn dịu dàng và hi sinh tất cả vì chồng con. Từ luôn ý thức được một điều cay đắng nhưng thực tế Hộ khổ là vì mình. Nên từng chén nước đến cử chỉ, lời nói, chị đều dành cho Hộ hết tình yêu thương.
Đến mức bị chồng say rượu, chửi bới, hắt hủi, chị vẫn chịu đựng chứ không ôm con bỏ đi, không bỏ mặc Hộ một mình. Vì Từ luôn ý thức được rằng chị yêu chồng không chỉ vì tình yêu mà còn vì anh là ân nhân của chị. Thế nên, Từ đã dành cho Hộ một thứ tình cảm rất thực tế và gần gũi với tình của một con chó đối với người nuôi. Ở phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói:"... Không!... Anh chỉ là một người khổ sở... Chính vì em mà anh khổ...”. Nàng ru con qua dòng nước mắt...Những giọt nước mắt hòa cùng tiếng ru chính là nỗi đau của sự bất lực, buông xuôi, cắt đứt tâm can của người phụ nữ bạc mệnh, được sống trong tình yêu nhưng lại không lấy nổi một ngày hạnh phúc.
Quan phân tích Đời thừa ta thấy chính những sự nhân đạo và nhạy cảm trong tâm hồn mà tác giả Nam cao đã khắc họa sâu sắc tâm hồn đẹp đẽ của một người phụ nữ thiện lương, nhân hậu, giàu đức hy sinh. Ông thông cảm cho nỗi đau và sự đau khổ của người đàn bà bạc mệnh, chịu nhiều đau khổ trong cuộc sống hôn nhân nghèo khó, cũng là bi kịch chung của những người phụ nữ sống trong xã hội cũ lúc bấy giờ: Được sống trong tình yêu nhưng ít có hạnh phúc.
Hộ đã cưu mang cuộc đời của Từ, người mẹ già của Từ và đứa con của chị. Đến lúc mẹ Từ qua đời, cũng chính Hộ là người đứng ra lo chuyện ma chay chu toàn. Sau đó, Hộ đã quyết định đưa ra một nghĩa cử cao đẹp, anh nhận Từ làm vợ, chấp nhận làm bố bảo bọc cho đứa con thơ. Hộ là một người đàn ông cao thượng, anh sẵn sàng cưu mang, chấp nhận bảo bọc cho mẹ con Từ suốt đời. Vì thế, đối với từ Hộ không chỉ là chồng mà còn là đại ân nhân, nên dù có khổ sở, thiếu thốn, cay đắng thế nào chị vẫn không rời xa anh.
Hộ đã thật sự yêu Từ và muốn chăm lo cho con tho một cách chu toàn chất. Anh đã tính đến chuyện phí đi một vài năm làm ăn để lo cho Từ một số vốn làm ăn. Hộ luôn muốn lo mẹ con Từ một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ nhất, cho chị thật nhiều tình yêu và sự ngọt ngào. “Những lúc Từ ốm, Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, hôn hít chúng vồ vập.”.
Thế nhưng cuộc đời vốn thực tế đến mức nghiệt ngã, đồng lương từ nhuận bút của Hộ ngày càng ít dần đến mức không đủ lo cho bữa ăn gia đình. “Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo”, anh cố gắng dè xẻn hết mức có thể để không tốn kém thêm bất kỳ khoản chi tiêu nào cho bản thân.
Mỗi khi có tiền, điều đầu tiên mà Hộ nghĩ đến cũng là mẹ con Từ, những lúc “sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đau con thơ cả tháng đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.”. Nhân vật Hộ hiện lên với hình ảnh một người đàn ông luôn thể hiện lòng nhân từ của mình bằng những nghĩa cử cao đẹp. Tình thương của anh dành cho một người phụ nữ đang trong cảnh túng quẫn với một người mẹ già bị mù và một đứa con thơ mới đẻ. Tác giả đã cho ta thấy rằng, những nhà văn không chỉ trong các tác phẩm, mà trong cuộc sống đời thực tâm hồn của họ vẫn luôn cao đẹp như thế, họ luôn muốn vun đắp cho hạnh phúc của những con người khắc khổ.
Qua phân tích Đời thừa ta thấy Hộ là một người có tài năng văn chương. Ban đầu anh viết văn rất nghiêm túc và thận trọng. Hộ luôn băn khoăn một lý tưởng sẽ viết nên một tác phẩm nổi bật có sức hút và làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời. Nhưng về sau, vì mưu sinh cuộc sống và nỗi lo cơm áo đã khiến anh cho xuất bản đại trà những cuốn văn viết vội, đến mức Hộ cũng cảm thấy xấu hổ mỗi khi đọc lại chúng. Sự hổ thẹn của Hộ đã chứng minh được một điều anh đang mâu thuẫn vì vẫn ý thức được ngòi bút cao quý của một nhà văn đang bị chi phối bởi thực tế cuộc sống khắc nghiệt, đến mức anh đã “tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương!”. Hộ bắt đầu cảm thấy chán chường và tự trách bản thân “Trước kia tin tường bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu.”. Anh cảm thấy dường như bản thân đã không còn giữ được sự tôn nghiêm, cao quý của một nhà văn chân chính nữa, có những lúc anh lại “rũ buồn, lắc đầu tự bảo: Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”.
Hộ luôn có cảm giác cắn rứt, dằn vặt trong tâm can. Vì đối với anh văn chương như một cái nghiệp. Mặc dù “nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn.”.Niềm đam mê của anh mãnh liệt và cháy bỏng đến mức anh đã từng nói:” đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng.”. Thế nên bắt anh phải viết văn qua loa, vội vàng, không có có ý nghĩa chỉ để kiếm tiền thì “Hộ điên người lên vì phải xoay tiền”, nhưng với nhân cách của một nhà văn chân chính không cho phép anh làm điều đó vì “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi.”
Đây là giai đoạn đầu của tấn bi kịch đã góp phần biến Hộ từ một nhà văn cao quý, sống thiện lương, tình cảm trở thành một kẻ cho ra những tác phẩm văn chương kém chất lượng vì đồng tiền. Để rồi sự vùi dập cùng với mâu thuẫn trong tâm can đã biến anh thành kẻ nát rượu, sống tệ bạc với vợ con, khiến Từ sống trong đau khổ, cam chịu. Phân tích Đời thừa ta thấy vì gia đình sống trong cảnh túng thiếu, nghèo đói mà ngòi bút của Hộ bị xã hội đen tối vùi dập. Nên anh bắt đầu tìm đến rượu để giải sầu, những khi say khướt, Hộ lại đối xử thậm tệ với vợ con, anh “gườm gườm đôi mắt, đòi vật một nhát cho chết cả.”. Nhưng đến khi “tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước.”. Có những khi tỉnh rượu, Hộ nhìn dáng vẻ của Từ mà đau xót, rồi nước mắt anh “bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh”. Hộ tự lên án mình “chỉ là... một thằng... khốn nạn!”.
Từ câu chuyện của nhân vật Hộ và Từ trong tác phẩm Đời thừa. Tác giả Nam Cao đã miêu tả rất rõ nét những chuyển biến tâm trạng của nhân vật từ một con người nhân đạo, tràn đầy tình yêu thương, một nhà văn trong sáng bị xã hội tăm tối, tàn lụi biến thành một tên xấu xa, đẩy cuộc đời của chính mình và gia đình vào cảnh bế tắc, không lối thoát.
Phân tích tác phẩm Đời thừa - mẫu 7
Truyện ngắn Đời thừa được Nam Cao đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 409, ra ngày 4/12/1943. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn, thể hiện sâu sắc bi kịch tinh thần của người trí thức trong xã hội cũ. Qua hình tượng nhân vật Hộ và Từ, Nam Cao không chỉ thể hiện nỗi xót xa, cảm thông với những số phận bị giằng xé giữa lý tưởng và thực tại mà còn lên án gay gắt một xã hội ngột ngạt, phi nhân tính – nơi mà những mơ ước chân chính bị vùi dập, và con người bị tha hóa ngay trong chính những mối quan hệ gần gũi nhất.
Nam Cao rất ít khi miêu tả ngoại hình nhân vật Từ, nhưng chỉ vài nét cuối truyện cũng đủ để phác họa hình ảnh một người phụ nữ khốn khổ: “da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tím tím…”. Những đường nét ấy không chỉ cho thấy sự tàn phai của nhan sắc mà còn thể hiện một cuộc sống thiếu thốn, nhiều lo toan. Từ là người phụ nữ bất hạnh, bị tình phụ, ôm con trong cảnh đói khát, mẹ già mù lòa không còn hy vọng nào ngoài nước mắt và cái chết. Sự xuất hiện của Hộ chính là cứu cánh duy nhất cho cuộc đời Từ, và kể từ đó, chị dành trọn tình yêu thương, sự hy sinh cho người chồng, người đã từng là ân nhân của mình.
Tình cảm của Từ dành cho Hộ không chỉ đơn thuần là tình yêu mà còn là sự biết ơn, là lòng chung thủy đến tột cùng. Dù bị Hộ – người từng cưu mang mình – say rượu, đánh đập, chửi rủa, Từ vẫn không một lần oán trách. Tình yêu ấy gần như trở nên mù quáng nhưng lại chân thành và sâu sắc. Nàng hiểu rằng Hộ đang khổ, và nỗi khổ ấy một phần là vì mình, vì gia đình nhỏ này. Câu nói cuối truyện “Không!... Anh chỉ là một người khổ sở... Chính vì em mà anh khổ...” là minh chứng cho một tấm lòng bao dung, vị tha đến tận cùng. Trong tiếng ru con thấm lệ của Từ, ta thấy được một nỗi đau âm thầm, một thân phận bạc mệnh nhưng đầy lòng nhân hậu. Qua hình tượng Từ, Nam Cao không chỉ thể hiện lòng cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ khổ đau mà còn ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ trong xã hội cũ đầy rẫy bất công.
Trái ngược với sự cam chịu lặng lẽ của Từ là bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng trong tâm hồn Hộ – một trí thức có tài, có lý tưởng, có khát vọng sống và sáng tạo nghệ thuật đích thực. Hộ từng nuôi dưỡng một hoài bão lớn: viết nên những tác phẩm làm mờ nhạt các tác phẩm khác cùng thời, mang đến cho con người ánh sáng của lòng nhân ái và công bằng. Quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh của Hộ rất tiến bộ và đầy tính nhân văn: “Trang sách phải thấm tình đời... phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi”. Chính khát vọng cao cả ấy khiến bi kịch của Hộ trở nên dữ dội khi anh dần đánh mất lý tưởng trong guồng quay của cơm áo gạo tiền.
Khi cuộc sống hiện thực ngày càng đè nặng lên vai, Hộ buộc phải từ bỏ lý tưởng cao đẹp để lao vào viết lách vội vàng, kiếm tiền nuôi vợ con. Chính điều đó khiến anh cảm thấy nhục nhã, đau đớn. Từ niềm tin mãnh liệt vào nghệ thuật, anh rơi vào sự dằn vặt và tự khinh bỉ chính mình. Anh gọi mình là “thằng khốn nạn”, “kẻ bất lương” – những lời tự kết án nặng nề cho một người từng sống vì lý tưởng. Đau đớn hơn, để quên đi hiện thực khốn khổ, anh tìm đến rượu và càng trở nên sa đọa, vũ phu với chính người mình thương yêu. Hộ – một con người từng đầy lòng nhân ái, từng che chở cho Từ và đứa con nhỏ – giờ lại trở thành kẻ đánh đập vợ con trong cơn say. Đó là một bi kịch tinh thần nghiệt ngã của người trí thức khi lý tưởng và hiện thực va đập đến mức không thể dung hòa.
Thế nhưng, đằng sau vẻ ngoài bê tha, Hộ vẫn là một con người biết yêu thương, biết ăn năn. Mỗi lần tỉnh rượu, anh đều ân hận, đau đớn. Giọt nước mắt anh khóc khi nhìn thấy vợ xanh xao, khi cảm thấy mình đang hủy hoại tất cả những điều tốt đẹp nhất, chính là giọt nước mắt của lương tri, của nhân cách chưa hề bị dập tắt hoàn toàn. Trong tiếng ru con của Từ, trong giọt nước mắt nức nở của Hộ, ta thấy được tiếng kêu đau đớn của những con người nhỏ bé bị chà đạp trong xã hội thực dân phong kiến. Chính xã hội ấy đã đầu độc con người, đã bào mòn lòng tin, đã khiến những mối quan hệ vốn dĩ đầy yêu thương trở nên méo mó và đầy nước mắt.
Truyện ngắn Đời thừa là một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo. Bằng lối viết chân thực, sắc sảo và đầy cảm xúc, Nam Cao đã dựng lên một bi kịch không chỉ mang tính cá nhân mà còn phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội thời bấy giờ. Đời thừa chính là nấc thang nghệ thuật dẫn đến những tác phẩm đỉnh cao hơn sau này của Nam Cao như Đôi mắt, và cũng là dấu ấn rõ nét cho hành trình chuyển biến tư tưởng của nhà văn – từ một trí thức cô đơn đi đến hòa mình cùng nhân dân trong kháng chiến.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích tác phẩm Dưới bóng hoàng lan
- Phân tích tác phẩm Làng của Kim Lân
- Phân tích tác phẩm Nam quốc sơn hà
- Phân tích tác phẩm Thương vợ
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

