50+ Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp 50+ Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác dễ dàng hơn.
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 1
- Dàn ý Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 2
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 3
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 4
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 5
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 6
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 7
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 8
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 9
- Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác (mẫu khác)
50+ Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Viếng lăng Bác - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 1
Đã mấy hôm rày đau tiễn đưa
Người tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau mấy gôc dừa...
(Bác ơi! – Tố Hữu)
Vào ngày mùng 2/9/1969, người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam – Hồ Chí Minh đã ra đi cùng với thế giới người hiền, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt đồng bào nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế viết lên những vần thơ thể hiện niềm kính yêu, tiếc thương vô hạn trước sự kiện lịch sử trọng đại này. Bảy năm sau ngày mất của Bác, cảm xúc ấy vẫn còn vẹn nguyên trong lòng Viễn Phương – người con của miền Nam trong một dịp ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác. Điều đó đã được nhà thơ ghi lại trong bài thơ "Viếng lăng Bác" (1976) với một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tinh tế, giàu cảm xúc thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ là dòng cảm xúc của Viễn Phương khi ở bên ngoài lăng:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng."
Câu thơ đầu cất lên như một lời thông báo giản dị nhưng chan chứa tình cảm thân thương: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác". Cách xưng hô: xưng "con" gọi "Bác" rất gần gũi, mộc mạc thân thương. Đây là cách xưng hô thường thấy của người dân Việt Nam đối với người cha già vĩ đại của dân tộc – Bác Hồ. Nhưng với Viễn Phương, cách xưng hô ấy vẫn mang sắc thái tình cảm riêng, điều đó đã được nhà thơ nhấn mạnh ở hai chữ "miền Nam". Miền Nam gợi đến một không gian địa lí rất xa xôi so với miền Bắc, miền Nam cũng gợi lên một mối quan hệ rất gắn bó, gần gũi trong trái tim của Người:
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"
(Tố Hữu)
Vì thế, với mối quan hệ thiết thân ấy, Viễn Phương đã không quản ngại từ miền Nam ra thăm Bác. Đặc biệt, trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh. Ông không sử dụng từ "Viếng" mà lại sử dụng từ "thăm". Điều đó có nghĩa là với Viễn Phương, ông ra Bắc như là trở về nhà để thăm cha, thăm nơi ở nghỉ ngơi của Bác. Người đọc cảm nhận được nỗi đau xót xa trong lòng của Viễn Phương đang được ông kìm nén, giữ chặt trong lòng, không muốn biểu lộ ra bên ngoài.
Khi đứng bên ngoài lăng, hình ảnh gây ấn tượng đậm nét với Viễn Phương là hình ảnh "hàng tre". Hình ảnh này rất giàu sức gợi: Cây tre là hình ảnh rất gần gũi, thân thuộc và thường thấy ở nông thôn, làng quê của Việt Nam. Nhưng cây tre từ lâu cũng có ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc, đã kinh qua biết bao nhiêu khó khăn, vất vả "bão táp mưa sa" mà vẫn hiên ngang, bất khuất, mạnh mẽ. Nay hình ảnh cây tre lại được nhà thơ miêu tả bằng các từ láy "xanh xanh", "bát ngát", gợi tả những hàng tre xanh mượt mà được trồng quanh lăng giống như cả dân tộc ta đang bên cạnh Người để bảo vệ, canh giấc ngủ bình yên cho Bác. Từ cảm thán "Ôi" thể hiện niềm cảm xúc ngỡ ngàng, ngạc nhiên tràn đầy xúc cảm của tác giả khi phát hiện ra những điều đó: hàng tre – dân tộc – chiến sĩ luôn sát cánh bên người cả khi người còn sống hay khi đã mất!. Như vậy, nhà thơ ra Bắc thăm Bác như là một đứa con từ phương xa, nay trở về thăm nhà, thăm cha đầy xúc động, chân thành.
Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ gợi nhắc tới bao phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ta qua hình ảnh "hàng tre" thì đến khổ hai, nhà thơ tiếp tục thể hiện những xúc cảm của mình trước những đoàn người vào lăng viếng Bác. Ở khổ hai, nhà thơ đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh tả thực và ẩn dụ. Hai câu thơ đầu, có hai hình ảnh mặt trời: "mặt trời" thứ nhất ở câu đầu là mặt trời của tự nhiên, của vũ trụ; "mặt trời" thứ hai ở câu hai là để chỉ Bác Hồ. Thực ra, việc ví Bác với mặt trời không phải là mới, trước Viễn Phương đã có rất nhiều nhà thơ đã ví Bác với mặt trời. Tố Hữu đã từng có ý thơ:
"Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người..."
Nhưng cái mới mẻ của Viễn Phương là đã kết hợp ẩn dụ với nghệ thuật nhân hóa. Mặt trời của tự nhiên vốn đã đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ trước vẻ đẹp tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Cảm nhận về hai câu thơ này, giáo sư Trần Đình Sử trong bài "Lời người con miền Nam ra thăm cha già dân tộc", đã viết: "Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen nhưng so sánh mặt trời trên lăng với mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời rất đỏ làm nhớ tới trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân". Với việc ví Bác với mặt trời, Viễn Phương vừa ca ngợi sự vĩ đại của Bác, vừa nhấn mạnh được tư tưởng ngời sáng của Người, lại vừa thể hiên được lòng thành kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.
Hai câu tiếp, nhà thơ miêu tả cảnh dòng người lần lượt vào lăng viếng Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân..."
Điệp từ "ngày ngày" diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, ngày nào cũng thế từng dòng người cứ lần lượt vào thăm viếng Bác. Bài thơ viết theo thể tám chữ nhưng tới câu thơ cuối khổ hai, lại dôi ra thành chín chữ một dòng thơ, kết hợp với dấu chấm lửng ở cuối câu thơ, làm cho nhịp thơ trở nên chậm lại, chứa đầy cảm xúc và khiến cho khổ thơ như vẫn tiếp tục kéo dài ra hơn. Ở đây, tác giả cũng sử dụng nghệ thuật ẩn dụ qua hình ảnh "dòng người" rất đẹp, đầy gợi cảm. Đoàn người vào lăng viếng Bác khiến tác giả liên tưởng giống như một tràng hoa và mỗi người là một bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác lòng thương nhớ, kính yêu. Đồng thời người đọc còn nhận ra các sử dựng từ ngữ của Viễn Phương rất độc đáo, đắc địa. Tác giả sử dụng từ " dòng người" chứ không phải là "đoàn người", "hàng người", điều đó có tác dụng gợi lên sự tiếp nối trải dài tới vô tận của những dòng người vào lăng. Cụm từ "Đi trong thương nhớ" gợi tả tình yêu thương và nỗi nhớ mong của nhân dân dành cho Bác, bao trùm lên cả không gian và thời gian vô tận "ngày ngày". Đặc biệt, hình ảnh "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ rất đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng: Bác Hồ với bảy mươi chín tuổi xuân đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân lớn cho quê hương, đất nước. Tóm lại, với hai câu cuối khổ hai, nhịp thơ chậm, hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã miêu tả nhưng dòng người vào lăng viếng Bác bằng tất cả lòng thành kính, biết ơn sâu sắc.
Hòa theo dòng người vào lăng viếng Bác, khi trước di hài Bác, xúc cảm ngẹn ngào của nhà thơ được đẩy lên cao hơn:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
Nghệ thuật nói giảm nói tránh "giấc ngủ bình yên" có tác dụng giảm bớt sự đau thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy giấc ngủ nhẹ nhàng, bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Hình ảnh "vâng trăng sáng dịu hiền" là một hình ảnh đầy chất thơ, rất giàu sức gợi. Đây là hình ảnh ẩn dụ gợi ta liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Qua những vần thơ về trăng của Bác, chúng ta thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chất nghệ sĩ trong con người HCM. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung HCM trong tâm khảm mỗi người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương, thương mến.
Từ niềm xúc cảm ngẹn ngào chuyển sang niềm xót xa, đau đớn, tiếc nuối:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim."
Hình ảnh "trời xanh" là hình ảnh ẩn dụ: khẳng định Bác còn sống mãi trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam, sự nghiệp và tư tưởng của Người trường tồn mãi với thời gian, năm tháng như bầu trời xanh của vụ trụ, của tự nhiên. Dù nhận thức được như thế nhưng lí trí không điều khiển được cảm xúc, tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát, ra đi mãi mãi của Người. Nỗi đau được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: "Mà sao nghe nhói ở trong tim!". Cấu trúc tương phản " Vẫn ... mà" kết hợp với dấu chấm than ở cuối khổ thơ đã diễn tả tình cảm thật chân thành, xót xa, đau đớn vô hạn trong đáy sâu tâm hồn của một đứa con xa nhà, nay trở về chịu tang cha, đứng trước di hài của cha mà nước mắt không ngừng rơi. Đây cũng là cảm xúc chung của biết bao nhiêu người con khi Bác đã về với thế giới người hiền năm xưa: "Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa" (Bác ơi! - Tố Hữu).
Nếu như những khổ thơ trên, chúng ta thấy nhà thơ như cố gắng gượng kìm nén cảm xúc, không muốn nước mắt tuôn rơi khi ngẫm tới sự ra đi vĩnh viễn của Bác, nhưng đến khổ thơ cuối, khi sắp phải ra về, nhà thơ không còn đủ lí trí tỉnh táo để kìm nén lòng mình lại nữa mà đã bật lên thành tiếng khóc nấc vỡ òa:
"Mai về miền Nam dâng trào nước mắt"
Nghĩ tới lúc phải tạm chia xa Bác, Viễn Phương không thể kìm giữ được lòng mình. Lời thơ rất giản dị, mộc mạc, chân thành, tha thiết thể hiện niềm lưu luyến, chẳng muốn chia xa.
Từ nỗi xúc động ngẹn ngào đó, nhà thơ cũng bộc lộ niềm ước nguyện cháy bỏng của mình:
"Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này."
Ba câu thơ cất lên với hình thức điệp từ, điệp ngữ "muốn làm" (3 lần) khiến cho nhịp thơ trở nên nhanh, dồn dập có tác dụng diễn tả niềm khao khát mãnh liệt, chân thành của nhà thơ. Những ước nguyện đã được nhà thơ liệt kê ra bằng một loạt các hình ảnh rất đẹp, rất cụ thể: muốn làm con chim để cất cao tiếng hót, muốn làm đóa hoa để đem lại hương sắc cho nơi Bác nằm, cũng như muốn dâng lên Bác tất cả nhưng gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.
Đặc biệt khép lại bài thơ là một ước nguyện thật đẹp, gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc: "Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này". Hình ảnh cây tre trung hiếu khiến ta liên tưởng tới hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu, việc lặp lại hình ảnh như vậy đã tạo nên kết cấu vòng tròn rất chặt chẽ: mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc là hàng tre trung hiếu với Bác. Hình ảnh ẩn dụ "cây tre trung hiếu" thể hiện lòng thành kính và trung thành vô hạn của nhà thơ với Bác. Nhà thơ nguyện suốt đời đi theo con đường lí tưởng của Bác. Đây không chỉ là ước nguyện của riêng nhà thơ mà cũng chính là ước nguyện chung của tất cả mọi người, của cả dân tộc Việt Nam.
Bài thơ được viết theo thể tám chữ (có dòng bảy chữ, chín chữ), có sự kết hợp giữa chất trữ tình và tự sự; giọng thơ biến đổi linh hoạt: lúc thì sâu lắng, tự hào, khi thì xót xa, tiếc nuối, lúc lại khát khao mạnh mẽ, rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm, cảm xúc từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc cuộc viếng thăm... Tác phẩm có sử dụng rất nhiều những hình ảnh sáng tạo, với hệ thống những hình ảnh tả thực và biểu tượng (hàng tre, trời xanh, mặt trời, vầng trăng...) giàu giá trị tạo hình và gợi cảm xúc. Đồng thời toàn bộ bài thơ rất giàu tính chất nhạc điệu nên thi phẩm đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành bài hát và trở thành một khúc ca đẹp về chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong cuốn "Đọc văn học văn", giáo sư Trần Đình Sử đã từng nhận xét về tác phẩm "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương: "Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc ". Như vậy, đọc xong bài thơ, chúng ta càng cảm thấy thấm thía hơn công lao và sự nghiệp, tư tưởng vĩ đại của Bác mãi trường tồn bất diệt với thời gian năm tháng. Và người đọc cũng nhận thức ra một điều cần phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự phát triển của non sông, đất nước, làm cho đất nước Việt Nam có thể "sáng vai với các cường quốc năm châu" trên thế giới mà Bác đã từng gửi gắm cho thế hệ trẻ Việt Nam trong quá khứ và mãi mãi về sau!.
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác
1. Mở Bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
2. Thân Bài
a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)
* Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.
- Cách xưng hô "Con - Bác": Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.
- Tác giả dùng từ thay thế "thăm" không phải "viếng" làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
- Cụm từ "Con ở miền Nam" vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.
- Hình ảnh ấn tượng: "hàng tre" vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp...)
- Dùng từ cảm thán: "Ôi!" biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.
b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác (khổ 2)
- 2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.
+ "Mặt trời" thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.
+ "Mặt trời" thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.
+ Chi tiết "rất đỏ" đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.
- 2 câu thơ sau:
+ Điệp từ "ngày ngày"
+ Hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ" là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.
+ Hình ảnh "tràng hoa" là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.
c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (4 câu tiếp theo)
- Tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức:
+ Từ ngữ "giấc ngủ bình yên": Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.
+ Hình ảnh "vầng trăng" được nhà thơ dùng để ví với Bác.
+ Hình ảnh ẩn dụ "trời xanh" gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.
+ Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.
d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối)
- Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.
- Điệp từ "muốn làm" cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.
- Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.
3. Kết Bài
- Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 2
Bác Hồ mất đi là một sự kiện lớn làm xúc động muôn triệu trái tim Việt Nam và thế giới, làm cảm động cả đất trời: “Trời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa”. Hầu như nhà thơ nào cũng làm thơ khóc Bác, viếng Bác. Trong đó có nhà thơ Viễn Phương với bài “Viếng lăng Bác”.
Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương không chỉ là một bài thơ viếng hay khóc Bác bình thường. Bác mất năm 1969. Mùa xuân 1975 đất nước mới thống nhất, năm 1976 Viễn Phương mới tới viếng lăng Người. Như vậy là viếng Bác, khóc Bác cũng là thăm Bác. Cả ba nhập vào một chuyến đi. Một chuyến hành hương mà đồng bào chiến sĩ miền Nam chờ đợi, mong mỏi và chiến đấu trong suốt mấy chục năm trường.
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô thật hồn nhiên mà tha thiết. Bác là cha cho nên mới xưng con. Nhưng con ở miền Nam lại mang một sắc thái thiêng liêng - đứa con xa vắng mặt ngày cha mất. Miền Nam là nơi đi trước về sau, nơi Bác Hồ hằng mong nhớ. “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre đã biết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Với từ con, với hình ảnh hàng tre, nhà thơ dã tạo nên một không khí thật thân thương gần gũi và thiêng liêng nơi lăng Bác.
Không gian quanh lăng Bác trở thành một không gian đặc biệt thương nhớ. Không gian thương nhớ ấy như là bất tận với thời gian, được láy đi láy lại bằng chữ ngày ngày. Dòng thời gian liên tục. Dòng người cũng như không ngừng nghỉ. Người mang hoa, người kết thành hoa dâng lên bảy mươi chín mùa xuân, dâng lên một cuộc đời chiến đấu hi sinh vì dân vì nước. Tình cảm với Bác được nén lại ở khổ thơ đầu được bày tỏ kín đáo qua cách dùng ẩn dụ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Ví Bác với mặt trời, nhà thơ muốn khẳng định Bác chính là ánh sáng chỉ đường cho nhân dân Việt Nam.
Nhưng đến khổ thơ thứ ba thì tình cảm mới bộc lộ một cách trực tiếp. Đó là tình thương, nỗi đau được bộc phát khi nhìn thấy Bác nằm trong lăng: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đây là cái giật mình thảng thốt. Tất nhiên, trong nhận thức lý trí nhắc ta Bác vẫn còn sống mãi. Nhưng đây là nỗi đau nhói lên từ đáy sâu trái tim. Bác mất thật rồi. Bác không thể gặp mặt những người con miền Nam mà người hằng mong nhớ.
Khổ thơ cuối là cảm xúc trước khi ra về:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
…
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương nhớ làm trào rơi nước mắt.Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào. Một cảm xúc dâng trào mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng bác để lại chút vui tươi nhí nhảnh bên một con người đã hy sinh cả gia đình tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng. Một làn hương như thực như hư đâu đây thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng để canh giấc ngủ cho người. Tất cả mọi ước muốn đề quy tụ vào một điểm là muốn được gần Bác mãi mãi, không rời xa.
Tóm lại, với những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, với giọng thơ nghiêm trang thành kính, với cảm xúc hết sức chân thành, nhà thơ viễn Phương đã nói hộ cho mọi người nỗi xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ - vị cha già của dân tộc.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 3
Viết về Bác luôn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Riêng trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tố Hữu, Minh Huệ… và lần này thì ở Viễn Phương. Thơ Viễn Phương có một phong cách độc đáo: vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng… nghĩa là những cung bậc khác nhau, pha trộn vào nhau. Sự đa dạng này phản ánh tính phong phú của đối tượng được tái hiện ở trong thơ. Hồ Chí Minh vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Vì thế, nhà thơ dường như không thể nào làm khác. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên trục thời gian hình thành một thứ nhật ký, một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Khổ đầu của bài thơ - cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ, vừa lạ vừa quen:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng vì sao đọc lên nghe cứ rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất cha ông xưa đi mở cõi, trong chiến tranh là mảnh đất "đi trước về sau" muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, miền Nam là một bức thành đồng. Nửa thế kỷ chiến đấu và hy sinh phải chăng không ngoài mục tiêu duy nhất: đất nước độc lập, Nam - Bắc một nhà. Khát khao đầy tính chất ngưỡng vọng ấy là gì, nếu không phải là hướng về đất Bắc, trái tim của cả nước. Vì vậy, khi đã đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ - đại diện cho những đứa con ở xa không khỏi ngỡ ngàng như bước vào một giấc mơ tưởng chừng không có thực. Câu thơ thật vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như kìm nén bỗng oà ra tức tưởi. Hai mảnh đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng cuộc hành hương. Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre quen thuộc đến nao lòng. Một chữ "đã" trong câu "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát". "Đã" là cái cử chỉ thân yêu, một hành động "tay bắt mặt mừng" vội vã dù được thực hiện bằng một thứ tiếng nói vô ngôn. Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà cất cánh:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mở ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chi là một chuyện thường tình, nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo (trong sương) thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng đứng của bốn nghìn năm dựng nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Bền bỉ, dẻo dai, vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc này mới có? Không khí của bài thơ được tạo ra bởi một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến tận đáy lòng. Phải là những con người bất khuất, trung kiên vào sống ra chết như thế nào trong cuộc tử sinh dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm ít người để ý.
Hai khổ thơ tiếp theo - phần chính của bài là sự bàng hoàng chiêm ngưỡng: Hồ Chí Minh vĩ đại mà giản dị đến không ngờ, về sự vĩ đại của Người, có thể so sánh với trăng sao, nghĩa là thuộc về vũ trụ. Nhưng cái sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho sự sống muôn loài mà phải là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên, bất ngờ xuất hiện, xuất hiện rất kịp thời phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Phép đối (ở đây là đối xứng) tưởng như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, không còn một cách nói nào thích hợp hơn. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc ta cũng có một mặt trời riêng là Hồ Chí Minh. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Hồ Chí Minh vĩ đại biết bao nhiêu, làm cách nào có khả năng nói hết? Tuy thế, cũng có sự khác nhau: cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên là im lặng, vô hồn, còn cái vĩnh cửu của "mặt trời trong lăng" thuộc về con người, thuộc về sự sống. Giữa những con người này, sự sống này, một chân lý đang được chứng minh: sự trường tồn của một cá thể trong cái hữu hạn nhân sinh là "bảy mươi chín mùa xuân" ngắn ngủi. Khổ thơ nói về "mặt trời trong lăng", câu thơ có ý nghĩa triết học sâu xa: Những hào kiệt, anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí về sự bất tử của linh hồn.
Bảy mươi chín tuổi của Hồ Chí Minh là "bảy mươi chín mùa xuân" và cuộc đời quanh Người, cũng là những tràng hoa, nghĩa là một mùa xuân ríu rít quây quần. Nghĩa hẹp và nghĩa rộng của hình tượng thơ cứ hồn nhiên lan toả bới hương vị đầm ấm ngọt ngào nhằm tôn vinh một con người mà giờ đây đã trở thành tất cả. Bác là tất cả, nhưng Bác cũng là một con người bình thường như tất cả chúng ta:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Gam màu của mạch thơ từ chói lọi, rực rỡ ớ khổ thơ trên đã chuyển hướng, trở nên dịu dàng mềm mại ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên, nhất là với trăng thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với Người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ đến bao nhiêu câu thơ rất đẹp về trăng của Hồ Chí Minh : "Tiếng suối trong như tiếng hát xa - Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"… Hồ Chí Minh giờ đã đi xa, có trăng bầu bạn, chung thuỷ vỗ về. Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ cảm thương xuất hiện :
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Ở đây tồn tại một nghịch lí: Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, với nhân dân ta vốn là vĩ đại. Nhưng ngay khi trở thành vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là một con người bình thường, nghĩa là cũng có một số phận riêng. Cảm giác “nghe nhói ở trong tim” của Viễn Phương là cảm giác rất thực với tư cách giữa con người với con người, nghĩa là bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Điều đó nói lên Hồ Chí Minh dù vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là con người. Và chính vì là con người, Hồ Chí Minh càng trở nên vĩ đại.
Khổ cuối của bài thơ, về hình tượng có sự đối ứng với khổ thơ đầu: hai địa danh (miền Nam) và hai hình ảnh (cây tre) được lặp lại nhằm hoàn tất một cuộc hành hương, nhưng ý nghĩa tinh thần thì đã khác. Trở về nơi đã ra đi, từ nơi vừa đến là nước mắt tràn ngập hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã nâng cấp thành một biểu trưng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành “cây tre trung hiếu”. Nguyện vọng hoá thân của nhà thơ là trong cảm xúc dâng trào ấy :
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghèn nghẹn không nói nên lời đang cất lên cái tiếng nói vô thanh của nó. Mà cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường, nhỏ bé biết chừng nào ? Một giọng chim ca, một đóa hoa lặng lẽ tỏa hương nghĩa là giống như lúc Hồ Chí Minh sinh thời "Xem sách chim rừng vào cửa đậu/Phê văn hoa núi ghé nghiên soi" (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn). Sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của nhà thơ một lần nữa nhằm tôn vinh một con người mà linh hồn như còn phảng phất nơi đây trong sương, trong nắng. Đồng thời nó cũng làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm tiếc thương và kính yêu vô hạn. Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 4
Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ vô cùng xúc động. Bài thơ ra đời trong khoảnh khắc xúc động, bài thơ là tấm lòng thành kính xót thương biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ, người cha già kính yêu dân tộc.
Lần đầu tiên nhà thơ được ra miền Bắc viếng Bác khi vào lăng viếng Bác.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Câu thơ chất chứa biết bao tình cảm con người ra thăm lăng Bác. Lời thơ còn ẩn chứa nỗi niềm ra thăm Bác nào ngờ ngày hội thống nhất non sông Bác không còn nữa, nhà thơ không nói viếng mà nói thăm bởi không muốn nghĩ rằng Bác đã đi xa. Mọi người về thăm Bác - thăm cha là lẽ tự nhiên. Ấn tượng đậm nét đầu tiên về cảnh quan nơi Bác nghỉ là hàng tre bát ngát trong sương sớm biết bao sức sống.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Xa xa nổi bật là hàng tre bát ngát một hình ảnh thân quen ở đâu tại Việt Nam cũng thấy. Tre kiên cường bất khuất, tre biểu tượng đẹp của con người Việt Nam dẻo dai bền bỉ kiên cường trước mọi phong ba bão táp lửa đạn kẻ thù. Tre kiên định anh hùng nay lại đứng bên Người bảo vệ cho Người yên giấc, nỗi xúc động trào dâng khiến nhà thơ thốt lên:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Thể hiện sự thiêng liêng thành kính tự hào bởi từ lâu cây tre - Hồ Chí Minh đã có mối quan hệ nội tại gắn bó và thống nhất trở thành biểu tượng quen thuộc với nhân dân thế giới.
Khổ hai có hai câu đối xứng chứa hai hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ. Hình ảnh thực là hình ảnh mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng, và hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng rất đỏ là Bác. Nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng hơi ấm sự sống cho muôn loài thì Bác Hồ là mặt trời đem lại sự đổi thay dân tộc. Hai hình ảnh sánh đôi soi chiếu tỏa sáng cho nhau. Cũng như vậy nhà thơ lấy hình ảnh thật của đoàn người. Hằng ngày nối đuôi nhau thành hình ảnh "Đi trong thương nhớ, kết tràng hoa" các so sánh vừa đẹp vừa lạ. Đoàn người kết thành dây hoa bất tận dâng người 79 mùa xuân. Cách dùng từ tinh tế và hình ảnh đẹp diễn tả tình cảm nhớ thương cũng như của nông dân Việt Nam miền Nam với Bác.
Nhà thơ diễn tả cảm xúc xót thương khi vào tới bên trong lăng. Khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh như liên kết cả không gian thời gian và người nằm đó thanh thản bình yên.
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên"
Hình ảnh Bác "giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu hiền" câu thơ thực và mộng gợi nhiều liên tưởng. Từ hình ảnh vầng trăng liên tưởng tới thơ Bác nhiều bài tràn ngập ánh trăng. Với hình ảnh trăng nhà thơ còn muốn tạo ra một hình ảnh kì vĩ Bác - Mặt trời - Vầng trăng - Trời xanh. Nếu mặt trời là biểu tượng của ánh sáng lí tưởng thì vầng trăng lại là tâm hồn trong sáng cao đẹp là tình yêu thương dịu hiền của Bác với mọi người. Vẫn biết Bác sống mãi với nhân dân đất nước như mặt trời, vầng trăng, bầu trời xanh nhưng sao vẫn nghe nhói đau trong tim. Nỗi đau trước một sự thật không khác được là Bác đã đi xa.
Cảm xúc dâng trào sau phút giây ngắn ngủi ở bên Người, ngày mai trở về miền Nam, những nguyện ước chân thành lại trào lên trong tâm hồn nhà thơ:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương trào nước mắt đó là một tình cảm rất thực không chỉ ở nhà thơ mà bất cứ ai đến viếng Bác. Nước mắt không phải rưng rưng mà trào ra đó là cảm xúc mãnh liệt chính từ cảm xúc nhớ thương vô hạn ấy mà lời thơ trở lên dứt khoát diễn tả bao ước muốn "Muốn làm chim hót, hoa tỏa hương, cây tre". Mọi ước muốn của nhà thơ đều quy tụ một điểm là mong được gần Bác. Bước chân trở về miền Nam mà lòng biết bao lưu luyến nhớ thương, hình ảnh cây tre tái hiện khép kín, bài thơ như một sự hô ứng khiến kết cấu bài thơ chặt chẽ giàu cảm xúc giàu ý nghĩa.
Bài thơ "Viếng Lăng Bác" đã để lại cho bạn đọc rất nhiều cảm xúc sâu lắng và thiết tha. Với nhiều hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương đã thay mặt nhân dân miền Nam nói riêng và toàn thể nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác những nỗi niềm cảm xúc chân thành, sự tôn kính thiêng liêng. Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc và gợi nhắc cho những thế hệ mai sau kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng một cách sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của một người vĩ đại mà vô cùng giản dị - Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời tươi đẹp.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 5
Viếng lăng Bác của Viễn Phương được sáng tác năm 1976 ngay sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, tác giả cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm lăng Bác. Bài thơ là những lời xúc động nghẹn ngào của người con thăm vị cha già của dân tộc. Tác phẩm không chỉ gửi gắm tâm trạng của riêng tác giả mà đó còn là tấm lòng của biết bao con người, bao thế hệ Việt Nam.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ vang lên thật thân thương và gần gũi, là “con” chứ không phải bất cứ đại từ xưng hô nào khác. Cách lựa chọn từ của tác giả thật tinh tế mà cũng thật giàu cảm xúc, diễn tả được sự yêu thương, gần gũi như những người thân trong gia đình. Tác giả ra thăm Bác cũng giống như những người con ra thăm cha sau bao năm xa cách. Ngoài ra, Thanh Hải cũng tỏ ra là người hết sức tinh tế khi sử dụng từ “thăm” chứ không phải “viếng”, cách nói giảm nói tránh làm giảm bớt những đau thương, mất mát, nhưng dẫu vậy cũng không thể giấu nổi nỗi đau đớn, xót xa.
Bước chân vào lăng, điều tác giả ấn tượng nhất chính là không gian của những hàng tre xanh rì, bát ngát. Nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở hàng tre tả thực ấy mà còn liên tưởng đến dân tộc Việt Nam: “Ơi hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng”. Đó chính là phẩm chất của con người Việt Nam đã được nhiều tác giả nói đến: “Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người” - Thép Mới hay “Ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu” - Nguyễn Duy. Con người Việt Nam dũng cảm, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, sóng gió để đi đến thành công.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Câu thơ có hai hình ảnh mặt trời sóng đôi: hình ảnh mặt trời trong câu thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, đem lại sự sống cho muôn loài, hình ảnh mặt trời này được nhân hóa “đi qua trên lăng” để ngắm nhìn, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của “mặt trời trong lăng rất đỏ”. Sử dụng biện pháp ẩn dụ, mặt trời trong lăng chính là biểu tượng cho Bác Hồ. Bác đem lại ánh sáng, sự sống cho dân tộc Việt Nam, Bác đã đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ cực khổ, tối tăm để đến với cuộc sống mới làm chủ vận mệnh, làm chủ đất nước. Dùng hình ảnh “mặt trời” để nói về Bác chính là để ca ngợi tấm gương đạo đức sáng ngời cũng như công lao vĩ đại của Bác với toàn thể dân tộc Việt Nam. Thông qua hình ảnh ẩn dụ tác giả vừa khẳng định sự vĩ đại, bất tử của Bác đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ của tác giả nói riêng và của nhân dân nói chung với Bác.
Trước tấm lòng, sự cống hiến của Bác “dòng người” ngày ngày vẫn kính cẩn nghiêng mình, đem tấm lòng chân thành viếng Bác. Hình ảnh “tràng hoa” là một hình ảnh đẹp về dòng người vào viếng lăng Bác. Mỗi con người tựa như một bông hoa, họ đem những gì đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mình với tấm lòng thành kính và tiếc thương vô hạn kính dâng lên Bác. Ở đây tác giả sử dụng kính dâng “bảy mươi chín mùa xuân” cho thấy Bác đã sống một cuộc đời tươi đẹp như mùa xuân và làm nên mùa xuân cho đất nước. Cách nói đó đã gián tiếp khẳng định sự sống bất tử của Bác trong lòng mọi người.
Càng đến gần Bác, tác giả càng nghẹn ngào, xúc động: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/ Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền/ Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Sau bao nhiêu năm bôn ba Bác đã yên nghỉ, ngủ một giấc ngủ bình yên, thanh thản trong không khí trang nghiêm, yên tĩnh bầu bạn với người bạn tri kỉ: ánh trăng. Để rồi sau đó, không thể kìm nén cảm xúc, tác giả bật lên lời cảm thán, nhường chỗ cho nỗi đau không thể giấu kín. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” lại một lần nữa khẳng định tuy Bác đã ra đi nhưng Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất trời, vẫn sống mãi với non sông đất nước. Mặc dù vẫn biết là như thế nhưng tác giả vẫn không thể giấu nổi nỗi lòng mình: nỗi đau quặn thắt, tê tái trong sâu thẳm tâm hồn Viễn Phương.
Giây phút được gặp Bác quả thật quá ngắn ngủi, giờ phút chia tay lại một lần nữa khiến tác giả thổn thức, cảm xúc dâng trào, vỡ ra thành những giọt nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Câu thơ như một tiếng khóc thổn thức, nức nở, dù đã cố kìm nén nhưng không thể, Viễn Phương bịn rịn, lưu luyến, không muốn rời xa. Ba câu thơ cuối là những nguyện ước giản dị mà hết sức chân thành của tác giả. Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc lại ba lần cùng phép liệt kê tạo âm hưởng dồn dập, thể hiện khát vọng chân thành, mãnh liệt của Viễn Phương. Ông muốn là con chim cất cao tiếng hót, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát và làm cây tre ngày ngày canh giữ giấc ngủ bình yên cho Bác.
Bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi. Tác giả sử dụng linh hoạt các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ: mặt trời, cây tre… diễn tả tấm lòng thành kính của tác giả với Bác Hồ. Giọng điệu vừa chân thành, trang nghiêm nhưng cũng hết sức sâu lắng, tha thiết. Hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, làm cho bài thơ trở nên sâu sắc hơn.
Bằng lớp ngôn từ đẹp đẽ, chân thành tác giả đã thể hiện tình cảm tha thiết không chỉ của riêng ông mà còn là của toàn thể dân tộc Việt Nam trước vị lãnh tụ, vị cha già của dân tộc Việt Nam. Qua đó, tác giả còn khám phá, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: kiên cường, bền bỉ, ân nghĩa, thủy chung.
Ai cũng cảm thấy phải sống xứng đáng, phải sống đẹp để trở thành "cây tre trung hiếu" của đất nước quê hương:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
"Cây tre trung hiếu" là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác.
Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiện rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 6
Bác Hồ - người anh hùng, một người con vĩ đại của dân tộc. Cả cuộc đời người đã cống hiến hết sức mình vì nhân dân,vì đất nước… Để rồi khi người ra đi, đã để lại cho nhân dân sự tiếc thương vô hạn. Bác ra đi là điều mất mát lớn nhất của dân tộc, là nỗi đau của hàng vạn trái tim Việt Nam. Những bài thơ, lời hát ra đời viết về nỗi thương nhớ, xót xa Người gây niềm xúc động mãnh liệt. Nổi bật hơn cả có lẽ là thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương. Nhà thơ đã bày tỏ sự kính trọng, biết ơn và nỗi niềm thương tiếc, đau xót qua từng dòng thơ.
Mở đầu bài thơ là lời thông báo của nhà thơ:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Viễn Phương đã xưng "con" đầy thân thương mà gần gũi, tha thiết. Nhà thơ đã dùng từ "thăm" để giảm đi sự đau buồn nhưng ta vẫn thấy sự đau buồn của cảnh sinh li tử biệt. Phải yêu thương, kính trọng biết bao mới xưng hô thân thiết như thế. Qua đó ta thấy được sự gần gũi, tình cảm của Bác với nhân dân như ruột thịt
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Màu tre xanh là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, trên xanh dũng cảm, kiên cường, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn vươn mình cứng cỏi. Hình ảnh "bão táp mưa sa" vẫn thẳng hàng" đã cho ta thấy được sự kiên cường, anh dũng, thanh cao của chính con người Việt Nam trước khó khăn, giông bão. Quanh lăng Bác là những hàng tre "xanh xanh","bát ngát" như những đứa con của dân tộc Việt Nam đang bảo vệ, canh giữ cho Người. Dù là lúc sống hay khi đã mất thì những người con Việt Nam vẫn luôn ở bên Người.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình trước đoàn người vào lăng:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Ở hai câu thơ đầu có hai hình ảnh của mặt trời. Mặt trời thứ nhất là mặt trời tả thực của thiên nhiên. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ. Mặt trời rất đỏ tượng trưng cho sự sáng chói, sống mãi của Người. Bác là Người đã soi lối, chỉ đường đưa dân tộc đến với độc lập, tự do. Bằng hình ảnh mặt trời ở cả hai câu thơ, tác giả muốn nói: "Bác Hồ là mặt trời đẹp nhất và luôn sống mãi trong tim của người dân Việt Nam". Qua đó, phải chăng con đường cách mạng của Người như chính ánh mặt trời đẹp đẽ, rực rỡ mang lại cả nguồn sống cho dân tộc. Đồng thời, bày tỏ tấm lòng thành kính, trân trọng của nhà thơ, của nhân dân với sự cao quý của Người. Ngày ngày, luôn có những dòng người lần lượt vào thăm Bác. Hình ảnh dòng người viếng lăng Bác được ví như tràng hoa dâng lên tặng Người, dâng lên Bác tình yêu, sự biết ơn và kính trọng những gì xinh đẹp nhất, tươi tắn nhất. "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ đầy đẹp đẽ, Bác đã sống cuộc đời 79 mùa xuân cống hiến và hi sinh hết mình vì dân, vì nước. Một cuộc đời thật đẹp đẽ và ý nghĩa, một cuộc đời vì mọi cuộc đời.
Khi vào trong lăng viếng Bác, cảm xúc của tác giả lên tới cao trào:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh đã giúp giảm đi sự đau thương mất mát của nhân dân cả nước: "Vầng sáng dịu hiền" như chính tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Người, như chính trái tim bao dung, nhân ái của Người. Trong trái tim mỗi người Việt Nam, Bác mãi mãi là "trời xanh", là nguồn sống, niềm tin bất diệt. Dù biết Bác sẽ mãi sống trong trái tim mỗi người nhưng vẫn mất mát, đau thương trước sự ra đi của Người. Câu thơ "mà sao nghe nhói ở trong tim" đã cho ta thấy được tình cảm sâu sắc, đau đớn của tác giả nói riêng và cả dân tộc nói chung.
Nếu như ở cả ba khổ thơ đầu, tác giả cố kìm nén cảm xúc nơi sâu thẳm đáy lòng thì đến với khổ thơ cuối, khi sắp phải chia xa người, lòng lại nặng trĩu, cảm xúc chợt tuôn trào:
"Mai về miền Nam dâng trào nước mắt"
Xa Bác, làm sao không buồn, không luyến tiếc cơ chứ. Vừa mới đến với Bác thôi nhưng vì một lẽ nào đó mà phải chia tay, cảm giác thật bịn rịn khó tả. Tác giả còn bộc bạch niềm mong muốn, khát vọng của mình:
"Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc tới ba lần vừa thấy được sự gấp gáp, sự khát khao mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ muốn làm con chim nhỏ để cất tiếng hót quanh Bác mỗi ngày, muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, để tô sắc thắm cho nơi đây. Và lời ước nguyện cuối cùng của tác giả:
"Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Mỗi người là một cây tre trung hiếu với Bác, thì cả hàng tre là cả dân tộc trung hiếu với Người. Nguyện trung thành và hiếu kính với Người suốt một đời. Luôn học tập và đi theo con đường lí tưởng cách mạng của Người. Ước nguyện đâu phải chỉ của riêng mình Viễn Phương đâu mà còn là ước nguyện của con dân miền Nam, là ước nguyện của cả dân tộc.
Đọc bài thơ em càng trân trọng biết bao công lao của Bác, trân quý biết bao nhân cách của Người. Và em cũng hiểu được rằng, mỗi tác phẩm văn học thành công không phải được tạo nên từ những lấp lánh, huyền ảo, cao sang của thực tại mà đến từ những điều bình dị, giản đơn nhất. Hơn hết, một tác phẩm thành công phải được xuất phát từ sự chân thành, từ tấm lòng tha thiết của người nghệ sĩ, "Viếng lăng Bác" xứng đáng với thành công ấy.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 7
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã hiến dâng cả cuộc đời mình vì dân vì nước. Người không một giây, một phút nào ngừng nghĩ về dân tộc, về sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân... Để rồi khi Người ra đi đã để lại một nỗi buồn vô hạn, một tình yêu thương tha thiết của nhân dân cả nước. Để rồi có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn hay về Bác, nổi bật trong đó có lẽ là "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương. Đọc từng dòng thơ ta nghe như sóng trào cảm xúc, lời thơ giản dị mà tình cảm chân thành, rất đỗi đẹp đẽ của nhà thơ nói chung và của miền Nam nói riêng dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Sau ngày đất nước hòa bình, Bắc Nam đã sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất, độc lập. Năm 1976, Viễn Phương may mắn được ra viếng thăm lăng Bác, lòng rất đỗi tự hào và vui mừng khôn xiết biết bao:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Nhà thơ xúc động cất lên tiếng "con" đầy tha thiết và chứa chan niềm yêu thương. Đó là sự kính yêu, hết mực trân trọng, là tấm lòng của một người con gửi đến người cha thân yêu, qua đó cũng nói lên được sự gần gũi của nhân dân với Bác như tình ruột thịt gắn bó keo sơn. Một sớm mai giữa bầu trời thủ đô, đến bên Người, ai cũng mang trong mình những tình cảm thật lớn lao, ai cũng mong được đứng thật lâu trước lăng Chủ tịch để cảm nhận.
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Đó là hàng tre xanh thân thuộc đứng hiên ngang, vững chãi trước bão táp mưa sa cũng chính như những người dân đất Việt, mạnh mẽ, kiên cường, ngay thẳng, kiên trung. Dẫu có mưa bom bão đạn, dẫu có nắng cháy, mưa sa, có thách thức, gian khổ, họ vẫn cần cù, chịu thương, chịu khó. Bao sóng gió, họ vẫn hiên ngang, đứng thẳng, ngẩng cao đầu chân chính bước tới vinh quang của tự do, độc lập. Gặp gỡ những điều bình dị ấy, trong tác giả dâng lên niềm tự hào khôn nguôi về nhân dân nước Việt. Những cây tre xanh tượng trưng cho những người con của dân tộc luôn bên cạnh Bác, song hành cùng Bác dù Bác đã đi xa, chở che, tỏa bóng mát dịu nhẹ xuống nơi Người an nghỉ.
Dường như, tất cả mọi thứ nơi đây đều quá đỗi cao đẹp và thiêng liêng:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hai vầng mặt trời sáng ngời bao vẻ đẹp. Mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, sáng soi, mang ánh sáng diệu kỳ, vô tận. Ánh sáng ấy mang lại bao sự sống cho muôn loài. Ánh "mặt trời trong lăng" là hình ảnh ẩn dụ cho ánh mặt trời của dân tộc - Bác Hồ kính yêu. Bác mãi bất tử với non sông, với dân tộc, sự nghiệp cách mạng chói ngời và vẻ vang của người đã soi sáng cho con đường chiến đấu phía trước của dân tộc để đi đến thống nhất ngất hôm nay. Đó còn là ánh mặt trời của tình thương, lòng bác ái mà Bác đã dành trọn cho nhân dân. Và có lẽ vì vậy, mà người người luôn mang trong mình tình cảm, lòng kính yêu đối với Bác. Giây phút lặng lẽ thiêng liêng từng dòng người đến viếng Bác, kết dâng tràng hoa tươi đẹp nhất, những tình cảm thiết tha nhất, nồng hậu nhất kết tinh gửi đến Người. Nhân dân muôn nơi đến viếng thăm, như những tràng hoa tươi đẹp của cuộc đời được nuôi dưỡng dưới ánh mặt trời rực rỡ của Người. Bảy mươi chín mùa xuân ấy là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời, sống trọn vẹn, cống hiến, hy sinh cho non sông, dân tộc.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim...
Bác nằm an nghỉ một giấc ngủ ngàn thu, ung dung, bình thản giữa vầng trăng dịu nhẹ. Khoảng không gian rất đỗi bình yên và lắng đọng. Vầng trăng như tâm hồn Bác vậy, bao la và đầy cao đẹp. Dẫu biết rằng, Bác cũng như trời xanh kia, luôn tồn tại mãi trong tim mỗi người. Nhưng sự thật khiến trái tim ta vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau khi mất Bác "Mà sao nghe nhói ở trong tim".
Theo dòng cảm xúc, lời thơ tuôn trào bao xúc động, khiến ta không khỏi nghẹn ngào:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Cảm xúc dâng trào mãnh liệt, tác giả vừa tiếc thương vừa lưu luyến khi phải rời xa Người để trở về miền Nam. Khao khát muốn làm đóa hoa để tỏa hương, cây tre kiên trung hay tiếng chim ca hát để được ở bên Người. Tình cảm tuyệt vời đó không chỉ là của riêng nhà thơ mà là tấm lòng yêu kính của những người con miền Nam dành cho Bác.
Cuộc đời Bác sống thanh cao, giản dị, không cầu kì. Có lẽ vì vậy mà những vần thơ Việt về người vẫn luôn bình dị và chân chất như thế. Hình ảnh quen thuộc, gần gũi nhưng bằng những phép ẩn dụ, nhân hóa đặc sắc tác giả đã bày tỏ lòng thành kính tới Bác. Dù chưa được một lần gặp Người, nhưng qua những vần thơ như thế, ta càng thêm kính yêu và tự hào về Người, mãi khắc ghi công ơn biển trời mà Bác đã dành cho dân tộc.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 8
Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài thơ như thế, bằng tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã viết nên những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính. Sau bao khát khao mong ước, hôm nay người con ấy có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như thỏa lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu.
Nơi miền Nam xa xôi, người con ấy mang cả trái tim của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo người, ấm áp biết bao. Đứng trước lăng là hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn hiên ngang, đứng bên người, chở che cho người.
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Từ cảm xúc khi đứng trước lăng, tác giả bồi hồi nghĩ về con dân đất Việt. Những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung, cây tre là biểu tượng là hồn cốt của dân tộc Việt. Người Việt Nam vẫn luôn sáng ngời bởi sự gắn bó bền chặt, ý chí kiên cường, dẫu bão táp mưa sa, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn hiên ngang, ngạy thẳng, thủy chung. Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc. Theo dòng người, vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng thương nhớ xúc động hơn bao giờ hết.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Nếu ánh mặt trời của thiên nhiên ngày ngày vẫn miệt mài "đi" bên Bác, vẫn dõi theo người, ánh mặt trời ấy mang sự sống, mang nguồn ánh sáng rực rỡ cho muôn loài trên thế gian. Thì Bác cũng như ánh mặt trời ấy, diệu kì và đẹp đẽ biết bao, Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thơ, chứa chan niềm tôn kính của nhà thơ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác vẫn ở đấy thôi, chúng con từ khắp mọi miền đến bên người. Ngày ngày những dòng người vào thăm Bác trong niềm xúc động, nhớ thương khôn nguôi. Niềm yêu thương ấy kết thành những tràng hoa đẹp nhất, rực rỡ nhất dâng lên người. Cuộc đời dân tộc nở hoa dưới nhân cách và công lao vĩ đại của Người.
Bác đã hiến trọn bảy mươi chín mùa xuân đẹp đẽ nhất cho dân tộc cho cách mạng, Bác đã làm nên mùa xuân mới cho đất nước, cho muôn dân. Càng vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng khó tả, càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh người:
"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
…
Mà sao nghe nhói ở trong tim".
Bác đang yên nghỉ giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu, ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm áp và dịu dàng, là kẻ tri âm tri kỉ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách vĩ đại của người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của muôn người, nhưng thực tại cũng khiến tác giả không khỏi đau lòng được.
Không buồn sao được, không thổn thức, tiếc thương sao được khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên sao mà nhói lòng, mà thổn thức đến vậy. Càng bên Bác, tình cảm lại càng dạt dào, càng bứt rứt, quyến luyến chẳng muốn rời xa. Từng phút giây thiêng liêng được bên Người là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, khi nghĩ đến việc phải xa Người lại không thể ngăn được những dòng nước mắt nuối tiếc, bịn rịn.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ước nguyện giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người. Từ “muốn làm” lặp đi lặp lại như diễn tả nỗi khát khao khôn nguôi được ở lại với Người, được bên Người thật lâu. Là con chim cất cao tiếng hót giữa bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngào ngạt, là cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Mong ước ấy đâu chỉ riêng của Viễn Phương mà còn là tiếng lòng, là khát khao, ước nguyện của tất cả mọi người còn trên đất nước này gửi đến Bác.
"Bác Hồ - người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy, phô trương. “Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 9
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác” để bộc lộ lòng thành kính, biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Đến với khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khác họa đôi nét về hình ảnh thiên nhiên bên ngoài lăng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Câu thơ mở đầu là lời giới thiệu đầy thân tình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng “con” - gọi “bác” cho thấy sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, vượt trăm ngàn cây số đến đây với mong muốn được gặp Bác Hồ - người cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát nhưng vẫn chẳng thể che giấu được sự ly biệt. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất của người Việt Nam. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” - ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre, dù trải qua giông bão vùi dập vẫn “đứng thẳng hàng” - vẫn ngay thẳng, hiên ngang và luôn tràn đầy sự sống.
Đến khổ thơ tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hai hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” - đó là mặt trời của tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” - hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác đã đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân ta, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Chẳng thể nào nói hết được lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài vô tận, cũng giống như nỗi nhớ dành cho Người. Cụm từ “ngày ngày” được điệp lại hai lần tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về đây, vào trong lăng viếng Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng viếng Bác. Dù đã ra đi, nhưng Người đã để lại cho nhân dân một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ khó có thể nguôi ngoai.
Và rồi không gian và thời gian như ngừng chuyển động trước hình ảnh của Người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào yên giấc khi mà đất nước, nhân dân đang chịu sự cai trị của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà, thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn tạm quên đi sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ đang nằm trong một giấc ngủ dài vô tận thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” - hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, bình yên. Người quả thật không mất đi mà chỉ đang ngủ thôi, Người vẫn còn sống với nhân dân, với đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi - trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Dẫu biết vậy, mà sao vẫn “nghe nhói ở trong tim” - vẫn cảm thấy xót xa, tiếc nuối vô cùng.
Và lời cuối cùng trước khi trở về, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Đó là lời hứa mà nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Nhà thơ muốn “làm con chim hót quanh lăng Bác”, “đóa hoa tỏa hương đâu đây”, “cây tre trung hiếu chốn này”. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều muốn được gần bên Bác, tận trung tận hiếu với Người.
Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, người đọc mới thấy được tình cảm sâu nặng mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mà nhà thơ chỉ là người nói thay tấm lòng ấy.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 10
Trong các bài thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc, gây cho em nhiều xúc động nhất. Bao trùm toàn bài thơ là niềm thương cảm vô hạn, lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại.
Câu thơ mở đầu "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời nói nghẹn ngào của đứa con đi xa trở về thăm viếng hương hồn Bác Hồ kính yêu. Tình cảm ấy là tình cảm chung của đồng bào và chiến sĩ miền Nam đối với lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Nhà thơ đứng lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn lăng Bác. Hàng tre để lại cho anh nhiều cảm xúc và liên tưởng thấm thía. Màu tre xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam luôn luôn gắn bó với tâm hồn của Bác. Bác đã "đi xa "nhưng tâm hồn Bác vẫn gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Cây tre, "hàng tre xanh xanh"... "đứng thẳng hàng" ẩn hiện thấp thoáng trước lăng Bác. Cây tre đã được nhân hóa như biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh cao... Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương biểu thị niềm tự hào dân tộc làm cho mỗi chúng ta cảm nhận sâu sắc về phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của con người Việt Nam trong bốn nghìn năm lịch sử.
Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều bài thơ nói đến hình ảnh mặt trời: "Mặt trời chân lí chói qua tim "( Từ ấy - Tố Hữu). "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi - Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" (Nguyễn Khoa Điềm). Viễn Phương có một lối nói rất hay và sáng tạo, đem đến cho em nhiều liên tưởng thú vị:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ở đây "mặt trời... rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên thì vĩnh hằng cũng tựa như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ đời đời bất tử.
Viễn Phương đã ví dòng người vô tận đến viếng lăng Bác như "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ". Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tất cả tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn. Ai cũng muốn đến dâng lên Người những thành tích tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học tập. Hương hoa của hồn người, hương hoa của đất nước kính dâng Người. Cách nói của Viễn Phương rất hay và xúc động: lòng thương tiếc, kính yêu Bác Hồ gắn liền với niềm tự hào của nhân dân ta - nhớ Bác và làm theo Di chúc của Bác.
Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, làm xúc động lòng em. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối với hương hồn Bác trước khi trở lại miền Nam thật vô cùng chân thành. Câu mở đầu nhà thơ viết: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"... đến đây, anh lại nghẹn ngào nói: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"... Biết bao lưu luyến, buồn thương! Ra về trong muôn dòng lệ "thương trào nước mắt". Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa, để được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhắc lại hai chữ "muốn làm" như thế giọng thơ trở nên thiết tha, cảm động. Những câu thơ của Viễn Phương vừa giàu hình tượng vừa dào dạt biểu cảm, đã khơi gợi trong tâm hồn em bao tình thương tiếc và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương tuy có tiếng khóc nhưng không làm cho chúng ta bi lụy, yếu mềm, trái lại, nó đã nâng cánh tâm hồn chúng ta:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn"
(Bác ơi - Tố Hữu)
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 11
Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu và cả sự xót đau vô hạn của Viễn Phương và cả của nhân dân miền Nam đối với Bác kính yêu.
Khổ một là cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra nỗi xúc động của người con phương xa. Cách xưng hô “con-Bác” vừa thiêng liêng, thành kính vừa gần gũi, thân mật. Nỗi đau chia cắt nén lại trong chữ “thăm”, con từ miền Nam ra thăm nơi cha ở, thăm chỗ cha nằm. Lời thơ là tiếng nói trái tim chân thành, tha thiết như nén hương thơm, được Viễn Phương thành kính dâng lên người cha kính yêu.
Từ miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét là hàng tre bát ngát, xanh xanh đứng thẳng hàng trong sương sớm:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Cây tre là biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường. Thán từ “Ôi” không chỉ thể hiện niềm xúc động, nghẹn ngào mà còn thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả khi được gặp lại ở lăng Bác một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Quanh lăng Bác, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng canh giấc ngủ cho Người, cả dân tộc vẫn đoàn kết và quần tụ quanh người cha già kính yêu ngay cả khi Người đã nằm xuống.
Sang đến khổ thơ thứ 2, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc về Bác, về những dòng người vào viếng Bác. Hai câu thơ đầu rực sáng với hai hình ảnh “Mặt trời”:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ” chính là Bác. Bác là vầng mặt trời của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp ấy đã thể hiện công lao vĩ đại, không gì có thể sánh được của Bác với đất nước, con người Việt Nam. Sự xúc động và lòng biết ơn vô hạn đã giúp nhà thơ có sự sáng tạo độc đáo khi nhận ra dù đã nằm trong lăng, Bác vẫn là vầng mặt trời rất đỏ, một màu đỏ nồng nàn, rực rỡ tỏa ra từ trái tim, từ nhiệt huyết của Bác khiến mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ phải khâm phục, ngưỡng mộ.
Song hành với hình ảnh mặt đi qua trên lăng là hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ. Dòng người vào trong lăng được đặt trong một không gian đặc biệt, không gian thương nhớ. Cấu trúc “Ngày ngày đi…” lặp lại nhấn mạnh sự song hành của mặt trời và dòng người như khẳng định một quy luật: mặt trời đi qua trên lăng còn dòng người đi trong thương nhớ. Nỗi nhớ thương người cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam là vô tận. Dòng người được miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, độc đáo “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Từ một hình ảnh thực, dòng người với vòng hoa đủ loại màu sắc, quần áo trông xa như một tràng hoa, tác giả đã đưa ra một hình ảnh tượng trưng đặc sắc. Mỗi con người là một bông hoa, cả dòng người kết thành một tràng hoa dâng lên Bác những gì đẹp nhất của mình. Hình ảnh ẩn dụ “Bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương khẳng định cuộc đời Bác như một mùa xuân vĩnh hằng.
Khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Hai câu thơ cân đối, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng và yên tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Bác đang ngủ trong một giấc ngủ bình yên và thanh thản. Gam màu của mạch thơ như chói lọi và rực rỡ của khổ thơ trên đã chuyển thành một gam màu trong sáng, tuyệt đẹp, dịu nhẹ: vầng trăng sáng dịu hiền nâng niu giấc ngủ bình yên ấy. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ gợi về tâm hồn thi sĩ cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả được thể hiện sâu sắc ở hai câu thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Dù vẫn tin trời xanh là bất diệt nhưng vẫn đau đớn về sự ra đi của Bác. Lí trí vẫn khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu) mà vẫn nghe thấy đau nhói ở trong tim. Câu thơ cuối cùng trực tiếp thể hiện nỗi đau xót khôn nguôi của người trước một mất mát không gì có thể bù đắp được.
Khổ thơ cuối cùng là nguyện ước của tác giả, nguyện ước được ở mãi mãi bên Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc của người Nam Bộ. “Mai về” có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy thương, thấy nhớ, thấy lưu luyến chẳng muốn xa rời. Càng không muốn chia xa thì nguyện ước được ở bên Bác càng mãnh liệt:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”
Tác giả gửi gắm lòng mình nhập vào cảnh vật ở lăng Bác. Ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng đó là nguyện ước được sống, được cống hiến mình cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với nhịp điệu dồn dập ở câu thơ cuối đã khẳng định nỗi niềm tha thiết và nguyện ước chân thành, mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Hình ảnh cây tre ở cuối bài tạo nên kết cấu đầu cuối tương xứng. Ước muốn được làm cây tre trung hiếu bên lăng Bác là ước muốn cao đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong những ước nguyện được hóa thân của nhà thơ. Cây tre trung hiếu là cây tre trung với Đảng, hiếu với dân. Tình cảm thủy chung, ân nghĩa làm âm hưởng câu thơ thêm tha thiết, lắng đọng mãi mãi trong dư âm của bài thơ.
“Viếng lăng Bác” là bài thơ đẹp và hay của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần được vào thăm lăng Bác. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho người cha già kính yêu. Với những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, bài thơ đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 12
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân. Để rồi 7 năm sau, tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương vẫn bồi hồi thương nhớ Người và sáng tác lên bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng, của toàn thể đồng bào Việt nói chung với vị lãnh tụ của dân tộc.
“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Viễn Phương. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1976, gây ấn tượng bởi những cảm xúc chân thành và niềm thành kính, biết ơn của nhà thơ, của đồng bào miền Nam và nhân dân cả nước dành cho Bác.
Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm kể từ ngày Người ra đi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương xưng hô “con -Bác” gợi cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một người con xa nhà, lâu ngày mới có dịp trở về thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nói tránh cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể nguôi ngoai của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” muôn vàn gian khổ để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người. Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình.
Tác giả bước theo dòng người chầm chậm vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Đến đây, nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Hình ảnh “Mặt trời đi qua trên lăng” miêu tả mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ, ngày ngày tỏa ánh sáng đem đến sự sống cho vạn vật. Trong lăng Bác – nơi Bác yên nghỉ lại có một “mặt trời” khác “rất đỏ”. “mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu, thể hiện niềm biết ơn thành kính với vị lãnh tụ như vầng thái dương soi sáng đường đi, chở che cho cả dân tộc.
Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật thời gian bất biến của tự nhiên lẫn con người, diễn tả hiện thực dòng người nối dài vô tận, lặng lẽ trang nghiêm mỗi ngày tiến vào lăng Bác để bày tỏ tình cảm với người cha già muôn vàn kính yêu. Họ là đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của đất nước và con người Việt Nam kính dâng lên Bác.
Ngoài ra, tác giả cũng sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” diễn tả bảy mươi chín năm tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để đem đến cho dân tộc ta một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh hằng.
Để rồi khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương vẫn tiếp tục dùng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn cố gắng giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh chân thực đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thực thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng. Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không con nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.
Đặc biệt, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son vô hạn với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam, của cả dân tộc.
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ...Từ đó thể hiện cảm xúc đau đớn xót thương, nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ dễ dàng khơi gợi cảm xúc trong lòng độc giả, là nén tâm hương kính dâng lên Người.
Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 13
Chiến tranh qua đi đã gần được một thế kỉ, ấy vậy mà mỗi khi nhắc lại, chúng ta vẫn không khỏi đau xót trước những nỗi mất mát, trước những hi sinh của thế hệ đi trước để bảo vệ độc lập, tự do. Trong số những nỗi mất mát của chiến tranh, có sự ra đi của các anh hùng, có sự rời bỏ cuộc sống của những người nông dân áo vải.... nhưng không phải những nỗi đau của chiến tranh mới là đau đớn nhất. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta còn phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn, đó là sự ra đi của Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của mỗi người dân Việt Nam. Dành cả cuộc đời để giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, Người cũng đến lúc phải từ biệt trần thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương đã thay lời mỗi con dân của Bác, nói lên nỗi đau xót, thương nhớ khôn nguôi dành cho Người.
Ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa từng một lần được nhìn thấy Bác:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Chiến tranh kết thúc, hòa bình được lập lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đồng bào miền Nam đã có dịp được ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con xa nhà về thăm người cha của mình. Nhà thơ bộc lộ nỗi xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp cảm ơn, chưa kịp thể hiện tấm lòng thành kính trước công ơn của Bác mà Bác đã ra đi mất rồi. Nhà thơ sử dụng hình ảnh "hàng tre" đã nói lên hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Ta cảm nhận được thái độ vô cùng tự hào vì là một người dân Việt Nam của tác giả. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!
Từ tấm lòng thành kính, sự biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót, xót thương trước sự ra đi của Bác:
"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Hình ảnh Bác đang nằm ngủ say giữa "một vầng trăng sáng dịu hiền" cho thấy tâm hồn cao đẹp, cho thấy sự hiền dịu của Người. Nhà thơ đau xót, cảm thấy mất mát vô cùng: "Mà sao nghe nhói ở trong tim!". Động từ "nhói" cho thấy sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác ra đi những vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Phải là một người vô cùng yêu thương, kính trọng Người thì mới có thể có những cảm xúc, những nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tấm lòng đối với Bác, cũng như tấm lòng của cả miền Nam.
Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng cùng với tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc, cho đất nước:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót, của sự lưu luyến khi vừa mới tới thăm Người được một chút thôi, giờ đã phải rời xa rồi. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ "Muốn làm" cho thấy ước muốn mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sớm mai, muốn làm đóa hoa tô điểm thêm cho cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát.... và muốn làm cây tre để trung hiếu với Người:
"Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa nói lên tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!
Là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù ta không thể hiểu được hoàn cảnh và những khó khăn trước kia nhưng vẫn cảm thấy được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng theo trình tự vào thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và cả những người con dân miền Nam như tác giả.
Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu được lí do tại sao mà bài thơ được phổ thành nhạc sau này. Đó chính là bởi vì những cảm xúc được cất lên từ tấm lòng chân thành của người viết, từ sự vĩ đại, cao cả của Bác Hồ kính yêu...
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 14
Bác Hồ từ lâu đã trở thành bao nguồn của hứng cho các thi sĩ sáng tác thơ ca. Lúc sinh thời Bác luôn nghĩ đến Miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam.Với Bác miền Nam là niềm vui, niềm hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi. “Miền nam trong trái tim tôi” niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền nam mau được giải phóng. Miền nam của ngày đêm thương nhớ Bác. Bằng cảm xúc chân thực, bằng ngôn ngữ gợi cảm, hình ảnh quen thuộc giàu chất tạo hình Viễn Phương đã thể hiện tấm lòng mình qua bài thơ: “Viếng Lăng Bác”.
Bài thơ ra đời năm 1976 khi lần đầu tiên sau khi giải phóng miền Nam, Viễn Phương đã ra thăm lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, cú tích nhưng có sức gợi tạo nên xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ tuôn trào theo dòng cảm xúc chân thành tha thiết.
Mở đầu bài thơ Viễn Phương đã bày tỏ tình cảm sâu nặng, tình cảm ruột thịt: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Tình cảm miền nam giữa Bác Hồ luôn là tình cảm ruột thịt: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà”. Viễn Phương và tình cảm miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm mong nhớ da diết: “Miền nam mong Bác nỗi mong cha”. Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác.
Câu thơ giản dị nhưng mang một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác, miền Nam và miền Bắc là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương là niềm tự hào là biểu tượng anh hùng bất khuất cho quê hương, cho tổ quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào, với đồng bào miền Nam ra thăm lăng Bác. Hình ảnh đầu tiên trong lăng bác là hình ảnh hàng tre.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả đã gửi một hàm ý mang nghĩa tượng trưng ca ngợi Bác. Ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, Bác cũng như mọi người dân Việt Nam, trong tâm trí nhà thơ cây tre là hình ảnh quen thuộc đời đời gắn bó với quê hương, xóm làng. “Hàng tre xanh xanh” trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng, hàng tre gợi ảnh mọi miền quê hương đất nước là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp, mưa sa như dân tộc vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời giản dị nhưng kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do.
Hòa vào dòng người thăm lăng Bác, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào cảm xúc tự hào, thành kính nhớ thương Bác.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. "
Ai đã từng một lần viếng thăm lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên, thán phục mọt mặt trời trong lăng rất đỏ. “Mặt trời rất đỏ” là hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ là mặt trời cách mạng là nguồn sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu tới con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng lý tưởng của cách mạng, nhưng đối sánh với hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương đây quả thật là một hình ảnh rất độc đáo. Đây là một sự sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả không nhiều lời chỉ một hình ảnh Mặt Trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ muốn nói với chúng ta rằng: “Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất, luôn tỏa sáng trong tâm hồn con người Việt Nam”.
Cùng với hình ảnh mặt trời, ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ, nhịp thơ chầm chậm bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy nghĩ bao trùm một không khí thương nhớ Bác khôn nguôi, thành kính dâng tràng hoa bảy mươi chín mùa xuân.
Nhà thơ Viễn Phương rất tinh tế trong việc miêu tả từng đoàn người cầm trên tay là hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác.
“Ngày ngày… ngày ngày…” - thời gian trôi không ngừng và trôi vào lòng người Việt Nam như một quy luật tất yếu không thể bỏ.
Khi vào trong lăng Viễn Phương đã nghẹn ngào đau đớn khi thấy Bác nằm đó:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ êm đềm. Sự bình yên của Bác là sự bình yên của đất nước. Bác nằm trong đó như đang nằm trong bảy mươi chín mùa xuân đã đã không hề nghỉ. Hình ảnh nhà thơ liên tưởng một cách sâu sắc: “giữa một vầng trăng sáng”. Hình ảnh đó làm cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, huyền ảo trong sáng thanh khiết càng gợi cho người ta đến tình yêu thiên nhiên, sự thư thái và thanh bình. “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi, mà sao nghe nhói ở trong tim”, tuy tác giả biết Bác đã ra đi bình yên, đã ngủ một giấc ngủ dài, nhưng Bác luôn sống mãi trong tim của mọi người dân Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng không thể phủ nhận sự thật rằng Bác đã ra đi mãi, nên từ sâu trong tim ông như có một thứ gì đó bóp nghẹt lại.
Cảm xúc quyến luyến của nhà thơ khi ngày mai phải xa Bác để với miền Nam.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 15
“Đã mấy hôm rày đau tiễn đưa
Người tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau mấy gốc dừa…”
(Bác ơi!, Tố Hữu)
Vào ngày mùng 2 tháng 9 năm 1969, người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam - Hồ Chí Minh đã ra đi cùng với thế giới người hiền, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt đồng bào nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế viết lên những vần thơ thể hiện niềm kính yêu, tiếc thương vô hạn trước sự kiện lịch sử trọng đại này. Bảy năm sau ngày mất của Bác, cảm xúc ấy vẫn còn vẹn nguyên trong lòng Viễn Phương - người con của miền Nam trong một dịp ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác. Điều đó đã được nhà thơ ghi lại trong bài thơ "Viếng lăng Bác" (1976) với một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tinh tế, giàu cảm xúc thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ là dòng cảm xúc của Viễn Phương khi ở bên ngoài lăng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Câu thơ đầu cất lên như một lời thông báo giản dị nhưng chan chứa tình cảm thân thương: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô: xưng “con” gọi “Bác” rất gần gũi, mộc mạc thân thương. Đây là cách xưng hô thường thấy của người dân Việt Nam đối với người cha già vĩ đại của dân tộc - Bác Hồ. Nhưng với Viễn Phương, cách xưng hô ấy vẫn mang sắc thái tình cảm riêng, điều đó đã được nhà thơ nhấn mạnh ở hai chữ “miền Nam”. Miền Nam gợi đến một không gian địa lí rất xa xôi so với miền Bắc, miền Nam cũng gợi lên một mối quan hệ rất gắn bó, gần gũi trong trái tim của Người:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Vì thế, với mối quan hệ thiết thân ấy, Viễn Phương đã không quản ngại từ miền Nam ra thăm Bác. Đặc biệt, trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh. Ông không sử dụng từ "viếng" mà lại sử dụng từ "thăm". Điều đó có nghĩa là với Viễn Phương, ông ra Bắc như là trở về nhà để thăm cha, thăm nơi ở, nơi nghỉ ngơi của Bác. Người đọc cảm nhận được nỗi đau xót xa trong lòng của Viễn Phương đang được ông kìm nén, giữ chặt trong lòng, không muốn biểu lộ ra bên ngoài.
Khi đứng bên ngoài lăng, hình ảnh gây ấn tượng đậm nét với Viễn Phương là hình ảnh “hàng tre”. Hình ảnh này rất giàu sức gợi: Cây tre là hình ảnh rất gần gũi, thân thuộc và thường thấy ở nông thôn, làng quê của Việt Nam. Những cây tre từ lâu cũng có ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc, đã kinh qua biết bao nhiêu khó khăn, vất vả “bão táp mưa sa” mà vẫn hiên ngang, bất khuất, mạnh mẽ. Nay hình ảnh cây tre lại được nhà thơ miêu tả bằng các từ láy “xanh xanh”, “bát ngát”, gợi tả những hàng tre xanh mượt mà được trồng quanh lăng giống như cả dân tộc ta đang bên cạnh Người để bảo vệ, canh giấc ngủ bình yên cho Bác. Từ cảm thán "Ôi" thể hiện niềm cảm xúc ngỡ ngàng, ngạc nhiên tràn đầy xúc cảm của tác giả khi phát hiện ra những điều đó: hàng tre - dân tộc - chiến sĩ luôn sát cánh bên Người cả khi Người còn sống hay khi đã mất. Như vậy, nhà thơ ra Bắc thăm Bác như là một đứa con từ phương xa, nay trở về thăm nhà, thăm cha đầy xúc động, chân thành.
Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ gợi nhắc tới bao phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ta qua hình ảnh “hàng tre” thì đến khổ hai, nhà thơ tiếp tục thể hiện những xúc cảm của mình trước những đoàn người vào lăng viếng Bác. Ở khổ hai, Viễn Phương đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh tả thực và ẩn dụ. Hai câu thơ đầu, có hai hình ảnh mặt trời: “mặt trời” thứ nhất ở câu đầu là mặt trời của tự nhiên, của vũ trụ; “mặt trời” thứ hai ở câu hai là để chỉ Bác Hồ. Thực ra, việc ví Bác với mặt trời không phải là mới, trước Viễn Phương đã có rất nhiều nhà thơ đã ví Bác với mặt trời. Tố Hữu đã từng có ý thơ:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người..."
Nhưng cái mới mẻ của Viễn Phương là đã kết hợp ẩn dụ với nghệ thuật nhân hóa. Mặt trời của tự nhiên vốn đã đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ trước vẻ đẹp tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Cảm nhận về hai câu thơ này, giáo sư Trần Đình Sử trong bài "Lời người con miền Nam ra thăm cha già dân tộc", đã viết: "Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen nhưng so sánh mặt trời trên lăng với mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời rất đỏ làm nhớ tới trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân". Với việc ví Bác với mặt trời, Viễn Phương vừa ca ngợi sự vĩ đại của Bác, vừa nhấn mạnh được tư tưởng ngời sáng của Người, lại vừa thể hiện được lòng thành kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.
Hai câu tiếp, nhà thơ miêu tả cảnh dòng người lần lượt vào lăng viếng Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân..."
Điệp từ "ngày ngày" diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, ngày nào cũng thế từng dòng người cứ lần lượt vào thăm viếng Bác. Bài thơ viết theo thể tám chữ nhưng tới câu thơ cuối khổ hai, lại dôi ra thành chín chữ một dòng thơ, kết hợp với dấu chấm lửng ở cuối câu thơ, làm cho nhịp thơ trở nên chậm lại, chứa đầy cảm xúc và khiến cho khổ thơ như vẫn tiếp tục kéo dài ra hơn. Ở đây, tác giả cũng sử dụng nghệ thuật ẩn dụ qua hình ảnh "dòng người" rất đẹp, đầy gợi cảm. Đoàn người vào lăng viếng Bác khiến tác giả liên tưởng giống như một tràng hoa và mỗi người là một bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác lòng thương nhớ, kính yêu. Đồng thời người đọc còn nhận ra các sử dựng từ ngữ của Viễn Phương rất độc đáo, đắc địa. Tác giả sử dụng từ "dòng người" chứ không phải là "đoàn người", "hàng người", điều đó có tác dụng gợi lên sự tiếp nối trải dài tới vô tận của những dòng người vào lăng. Cụm từ "đi trong thương nhớ" gợi tả tình yêu thương và nỗi nhớ mong của nhân dân dành cho Bác, bao trùm lên cả không gian và thời gian vô tận "ngày ngày". Đặc biệt, hình ảnh "bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ rất đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng: Bác Hồ với bảy mươi chín tuổi xuân đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân lớn cho quê hương, đất nước. Tóm lại, với hai câu cuối khổ hai, nhịp thơ chậm, hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã miêu tả nhưng dòng người vào lăng viếng Bác bằng tất cả lòng thành kính, biết ơn sâu sắc.
Hòa theo dòng người vào lăng viếng Bác, khi trước di hài Bác, xúc cảm nghẹn ngào của nhà thơ được đẩy lên cao hơn:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
Nghệ thuật nói giảm nói tránh "giấc ngủ bình yên" có tác dụng giảm bớt sự đau thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy giấc ngủ nhẹ nhàng, bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" là một hình ảnh đầy chất thơ, rất giàu sức gợi. Đây là hình ảnh ẩn dụ gợi ta liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Qua những vần thơ về trăng của Bác, chúng ta thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chất nghệ sĩ trong con người Hồ Chí Minh. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chí Minh trong tâm khảm mỗi người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương, thương mến.
Từ niềm xúc cảm nghẹn ngào chuyển sang niềm xót xa, đau đớn, tiếc nuối:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim."
Hình ảnh "trời xanh" là hình ảnh ẩn dụ: khẳng định Bác còn sống mãi trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam, sự nghiệp và tư tưởng của Người trường tồn mãi với thời gian, năm tháng như bầu trời xanh của vũ trụ, của tự nhiên. Dù nhận thức được như thế nhưng lí trí không điều khiển được cảm xúc, tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát, ra đi mãi mãi của Người. Nỗi đau được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: "Mà sao nghe nhói ở trong tim!". Cấu trúc tương phản " Vẫn ... mà" kết hợp với dấu chấm than ở cuối khổ thơ đã diễn tả tình cảm thật chân thành, xót xa, đau đớn vô hạn trong đáy sâu tâm hồn của một đứa con xa nhà, nay trở về chịu tang cha, đứng trước di hài của cha mà nước mắt không ngừng rơi. Đây cũng là cảm xúc chung của biết bao nhiêu người con khi Bác đã về với thế giới người hiền năm xưa: "Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa" (Bác ơi! - Tố Hữu).
Nếu như những khổ thơ trên, chúng ta thấy nhà thơ như cố gắng gượng kìm nén cảm xúc, không muốn nước mắt tuôn rơi khi ngẫm tới sự ra đi vĩnh viễn của Bác, nhưng đến khổ thơ cuối, khi sắp phải ra về, nhà thơ không còn đủ lí trí tỉnh táo để kìm nén lòng mình lại nữa mà đã bật lên thành tiếng khóc nấc vỡ òa:
"Mai về miền Nam dâng trào nước mắt"
Nghĩ tới lúc phải tạm chia xa Bác, Viễn Phương không thể kìm giữ được lòng mình. Lời thơ rất giản dị, mộc mạc, chân thành, tha thiết thể hiện niềm lưu luyến, chẳng muốn chia xa.
Từ nỗi xúc động nghẹn ngào đó, nhà thơ cũng bộc lộ niềm ước nguyện cháy bỏng của mình:
"Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Ba câu thơ cất lên với hình thức điệp từ, điệp ngữ "muốn làm" (ba lần) khiến cho nhịp thơ trở nên nhanh, dồn dập có tác dụng diễn tả niềm khao khát mãnh liệt, chân thành của nhà thơ. Những ước nguyện đã được nhà thơ liệt kê ra bằng một loạt các hình ảnh rất đẹp, rất cụ thể: muốn làm con chim để cất cao tiếng hót, muốn làm đóa hoa để đem lại hương sắc cho nơi Bác nằm, cũng như muốn dâng lên Bác tất cả những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.
Đặc biệt khép lại bài thơ là một ước nguyện thật đẹp, gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc: "Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này". Hình ảnh cây tre trung hiếu khiến ta liên tưởng tới hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu, việc lặp lại hình ảnh như vậy đã tạo nên kết cấu vòng tròn rất chặt chẽ: mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc là hàng tre trung hiếu với Bác. Hình ảnh ẩn dụ "cây tre trung hiếu" thể hiện lòng thành kính và trung thành vô hạn của nhà thơ với Bác. Nhà thơ nguyện suốt đời đi theo con đường lí tưởng của Bác. Đây không chỉ là ước nguyện của riêng nhà thơ mà cũng chính là ước nguyện chung của tất cả mọi người, của cả dân tộc Việt Nam.
Bài thơ được viết theo thể tám chữ (có dòng bảy chữ, chín chữ), có sự kết hợp giữa chất trữ tình và tự sự; giọng thơ biến đổi linh hoạt: lúc thì sâu lắng, tự hào, khi thì xót xa, tiếc nuối, lúc lại khát khao mạnh mẽ, rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm, cảm xúc từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc cuộc viếng thăm... Tác phẩm có sử dụng rất nhiều những hình ảnh sáng tạo, với hệ thống những hình ảnh tả thực và biểu tượng (hàng tre, trời xanh, mặt trời, vầng trăng...) giàu giá trị tạo hình và gợi cảm xúc. Đồng thời toàn bộ bài thơ rất giàu tính chất nhạc điệu nên thi phẩm đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành bài hát và trở thành một khúc ca đẹp về chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong cuốn "Đọc văn học văn", giáo sư Trần Đình Sử đã từng nhận xét về tác phẩm "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương: "Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc ". Như vậy, đọc xong bài thơ, chúng ta càng cảm thấy thấm thía hơn công lao và sự nghiệp, tư tưởng vĩ đại của Bác mãi trường tồn bất diệt với thời gian năm tháng. Và người đọc cũng nhận thức ra một điều cần phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự phát triển của non sông, đất nước, làm cho đất nước Việt Nam có thể "sánh vai với các cường quốc năm châu" trên thế giới mà Bác đã từng gửi gắm cho thế hệ trẻ Việt Nam trong quá khứ và mãi mãi về sau!.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 16
Ai đã là người con mang trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, ắt hẳn đều một lần mong muốn được ra Hà Nội và lăng viếng Bác. Đặc biệt là với những người con ở những miền quê xa xôi như ở miền Nam. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương lớp 9, độc giả sẽ vô cùng cảm động trước tấm lòng của những người con phương Nam gửi tới Bác Hồ. Mà cụ thể là tấm lòng tôn kính, chân thành của tác giả Viễn Phương dành cho vị cha già dân tộc.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”
Ngay từ câu đầu thơ đầu tiên, tác giả đã mang tới cho người đọc một tâm trạng trào dâng xúc động của một người con, từ chiến trường miền Nam xa xôi, bao năm mong mỏi giờ mới được ra thăm cha, thăm Bác. Tiếng “con” cất sao mà nghẹn ngào đến thế, da diết đến thế! Tiếng “con” ở đây tác giả không chỉ nói riêng nỗi lòng mình, mà đó là nỗi lòng của triệu triệu người con đất Việt dành cho Bác.
Ở đây, tác giả không dùng từ “cúng” mà dùng từ “thăm” để nói giảm, nói tránh đi nỗi đau mất mát. Với nhà thơ Viễn Phương cũng như tất cả triệu người con nước Việt, Bác Hồ luôn luôn sống mãi, Bác chỉ là đang ngủ một giấc dài mà thôi.
Từ khi lăng Bác khánh thành, vẫn luôn có hàng ngàn, hàng vạn người kiên nhẫn chờ đợi để xếp hàng vào lăng thăm Bác. Ai cũng sẽ thấy hàng tre xanh đứng quan lăng Bác. Thế nhưng, không phải ai cũng thốt lên những câu ấn tượng về hàng tre ấy như nhà thơ Viễn Phương. Đúng vậy! Cây tre từ lâu đã là biểu tượng cho sự vững mạnh vượt qua mọi phong ba bão táp của nước Việt. Tre đã theo Thánh Gióng ra trận. Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà xanh. Và giờ đây, quanh lăng Bác, những hàng tre vẫn đứng thẳng hàng, vẫn hiên ngang, bát ngát bảo vệ giấc ngủ của Người. Tác giả không miêu tả lăng Bác to lớn thế, uy nghi ra sao. Tác giả tự hào, nghẹn ngào xúc động bơi bên Bác vẫn là những khóm cây đậm chất Việt Nam. Vẫn là những điều bình dị, đơn sơ nhất, giống như tâm hồn của Người vậy.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Vẫn là trên đường vào lăng Bác và tâm trạng của tác giả vẫn đang dâng trào sự xúc động. Ở đây, tác giả bất chợ đưa ra một sự ẩn dụ thật độc đáo. Khi thấy mặt trời đi qua trên lăng, nhà thơ nghĩ ngay đến hình ảnh Bác Hồ. Ông ví Bác như một mặt trời đang nằm trong lăng. Nếu như mặt trời thực kia mang tới sự sống cho Trái đất, muôn loài thì mặt trời ẩn dụ là Bác Hồ cũng mang tới cho dân tộc Việt sự trường tồn và hạnh phúc. Thật là một lối ẩn dụ hết sức chính xác và thuyết phục. Khiến độc giả chỉ cần đọc một lần và ấn tượng mãi không quên.
Hòa mình vào dòng người đang từng bước đến gần lăng Bác, mà lòng tác giả cứ dâng trào nỗi thương nhớ đến nghẹn ngào. Mọi người không ai bảo ai, kính cẩn, nghiêm trang xếp thành hàng như những tràng hoa muôn sắc màu để dâng lên Bác. Ở đây, tác giả một lần nữa lại sử dụng lối ẩn dụ để thể hiện tình cảm yêu mến tới Người. Trong khi đó, tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ để nói về số tuổi của Bác. Bác đã dùng bảy mươi chín mùa xuân của mình để đổi lấy niềm hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho cả dân tộc.
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Ngay khi nhìn thấy thi hài Bác, tác giả không hề nghĩ rằng Bác đã mất mà chỉ là đang ngủ một giấc bình yên. Bởi Bác tin rằng, nước nhà sẽ có ngày độc lập, nhân dân chắc chắn sẽ được hạnh phúc. Vì thế, Bác thanh thản nằm ngủ để ngày ngày lắng nghe đàn con cháu tới thăm.
Nếu như khi ở ngoài lăng, tác giả ví von ẩn dụ Bác với hình ảnh mặt trời thì khi vào trong, ánh sáng dịu nhẹ nơi Bác ngủ, lại khiến nhà thơ liên tưởng tới “ vầng trăng sáng dịu hiền”. Khi còn sống, Bác đã có rất nhiều bài thơ gắn liền với ánh trăng. Bởi thế, hình ảnh “vầng trăng dịu hiền” ở đây gợi lên nhớ tới tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ vĩ đại. “Vầng trăng” còn gợi đến một cuộc sống dung dị, mộc mạc của Bác. Một đời Bác hy sinh cho đất cho nước là thế, nhưng Bác vẫn sống thật đạm bạc và giản gị. Thế nên, nhìn thấy Bác, tác giả không nén lại được nỗi xúc động dâng trào, để rồi phải thốt lên: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Không riêng gì nhà thơ Viễn Phương, mà với tất cả người con đất Việt, dù Bác Hồ đã ra đi, nhưng hồn Bác đã hóa thành sông núi, là bầu trời, là ánh trăng là đất nước. Nên hình ảnh Bác vẫn luôn hiện hữu quanh mỗi người. Vẫn biết là thế nhưng trong tim vẫn thấy nhói đau. Câu thơ nói lên xúc cảm quặn đau của tác giả trước thi hài Bác. Dù đã tự nhủ lòng không được khóc nhưng mà sao nước mắt cứ rơi.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia xa. Và lúc chia li bao giờ cũng bịn rịn đầy lưu luyến.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ như khúc biệt ly thấm đẫm nước mắt. Hôm nay đây con ở bên cạnh Người, nhưng mai rồi con phải về nơi miền Nam xa cách. Một lời giã biệt giản dị nhưng diễn tả sâu lắng tình cảm mà tác giả dành cho Bác. Một lần ra Hà Nội là một lần khó bởi thế, tác giả luyến tiếc không muốn rời xa. Nhà thơ ước sao mình hóa thành chim để ngày ngày hót quanh lăng Bác. Tác giả muốn hóa thành hoa để tỏa hương quanh Bác. Tác giả muốn biến thành cây tre để bảo vệ Bác suốt đời.
Điệp từ “muốn làm” càng nhấn mạnh hơn tâm trạng lưu luyến của tác giả. Chẳng phải tự nhiên mà tác giả sắp xếp hình ảnh cây tre ở kết thúc bài. Bởi đó là hình ảnh nhân hóa, chứa đựng phẩm chất trung hiếu của con người đất Việt. Đó không chỉ thể hiện ý nguyện muốn được ở bên để bảo vệ Bác mà còn muốn khẳng định với Bác rằng, mọi người dân sẽ sống có trách nhiệm, quyết tâm gìn giữ sự nghiệp vì nước vì dân của Người.
Có thể nói, khi phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương lớp 9, không ít độc giả đã rung rung nước mắt. Bởi trong tim mỗi người con đất Việt, dù lớn hay bé, dù người miền xuôi hay miền ngược, dù miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, Bác Hồ luôn là một người thân thiết. Mỗi câu thơ trong luôn khiến người đọc phải thổn thức. Đặc biệt, mỗi khi vào lăng viếng Bác, được nghe câu ca này càng khiến tâm trạng của mỗi người trào dâng sự xúc động.
Viếng lăng Bác là tấm lòng thành kính là tình yêu vô bờ bến của hết thảy người dân trên dải đất hình chữ S này dành cho Bác. Dù cho thế hệ ngày xưa, hôm nay và mai sau thì việc được một lần vào lăng viếng Bác luôn là một việc thiêng liêng, cao quý.
Bài thơ sử dụng những hình ảnh ẩn dụ độc đáo, gợi cảm xúc, với ngôn ngữ hàm súc, bình dị. Nhịp thơ như một bài ca nên dễ đi vào lòng người. Có lẽ vì thế mà nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã phổ nhạc thành bài hát cùng tên vô cùng ngọt ngào.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 17
Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.
Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh. Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.
Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc. Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.
Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 18
“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha”.
Nhân dân miền Nam luôn ước ao nước nhà thống nhất để được đón Bác vào thăm, thế nhưng Bác đã ra đi, để lại cho nhân dân miền Nam nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung bao niềm tiếc thương vô hạn. Tình cảm đó đã được nhà thơ Viễn Phương, trong chuyến lần đầu ra thăm lăng Bác diễn tả thật xúc động qua “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là sự dồn nén kết tinh tình cảm chân thành thương nhớ Bác không của chỉ riêng nhà thơ mà còn là của hàng triệu chiến sĩ và đồng bào miền Nam – những người cũng như nhà thơ – tuy chưa một lần gặp Bác ở đời thật nhưng đã nghìn lần thấy trong mơ, trong hoài vọng, trong lí tưởng cao đẹp nhất của mình.
Từ khói lửa chiến trang bước ra, người chiến sĩ Viễn Phương đến Hà Nội, nơi trái tim của cả nước, để được viếng Bác. Khổ một đã thể hiện cảm xúc của tác giả về cảnh quan bên ngoài lăng Bác. Câu mở đầu bài thơ giản dị mà chân chất đã nói lên hoàn cảnh viếng lăng Bác, mở ra một không khí thân mật mà trang nghiêm: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Sử dụng cách xưng hô “con – Bác” và thay “viếng” thành “thăm”, nhà thơ vừa thể hiện sự tôn kính một cách gần gũi, vừa giảm bớt đi sự đau buồn. Bằng cách này, người đọc hiểu rằng Bác vẫn còn sống mãi, chỉ là đang ngủ một giấc thật lâu, thật dài mà thôi. Câu thơ tuy không được gọt giũa từng câu chữ nhưng là xúc động bạn đọc vì đây là tiếng nói tự đáy lòng của người con đi xa về bên cha. Câu thơ tuy bằng lặng nhưng bên trong lại ẩn chứa một nỗi đau khôn nguôi của sự mất mát.
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Đến gần lăng, không gian “hàng tre bát ngát” lẫn trong sương sớm hiên ra ngay trước mắt cùng thán từ “ôi” đã diễn tả một trạng thái xúc động, bồi hồi của nhà thơ. Quanh lăng Bác là hình ảnh hàng tre thân thuộc, gắn bó với làng quê Việt Nam, cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con người Việt Nam với sức sống bền bỉ, kiên cường trước mọi phong ba bão táp, thử thách khó khăn. Màu tre mãi xanh như cái sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt của tự nhiên và lịch sử. Hàng tre bên lăng Bác khẽ đu đưa, âu yếm giấc ngủ ngàn đời của Bác như thuở ấu thơ tre làm bạn với Người.
Khổ hai bài thơ là cảm xúc của Viễn Phương trước khi vào viếng thăm lăng Bác. Bác nằm trong lăng, vẫn sống mãi với non sông đất nước, vẫn tỏa sáng cho muôn đời:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Mặt trời của thiên nhiên đem lại sức sống cho muôn loài, gợi cho tác giả liên tưởng rằng Bác của chúng ta cũng là một mặt trời, đã soi đường dẫn lối cho nhân dân đi lên từ trong đêm tối nô lệ đến cuộc đời sáng lạng của tự do và độc lập. Muôn vàn nỗi tiếc thương đối với công ơn to lớn của Bác đã được nhà thơ linh động ví như những tràng hoa kết lại dâng lên để bày tấm lòng thành kính đối với Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Sử dụng nghệ thuật hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả vừa ca ngợi bảy chín năm trong cuộc đời Bác đẹp như mùa xuân, vừa thể hiện lòng biết ơn vì Bác đã đem lại mùa xuân cho đất nước. Kết hợp cùng điệp ngữ “ngày ngày”, hình ảnh Bác sẽ mãi trường tồn trong tâm trí mỗi con người Việt Nam.
Bao nhiêu cảm xúc lại được dâng cao hơn khi Viễn Phương bước những bước đầu tiên vào lăng Bác trong khổ ba:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Với giọng điệu trang nghiêm, thành kính, phù hợp với không khí thiêng liêng, thanh tĩnh ở trong lăng, nhà thơ khiến ta hình dung như Bác vẫn đang chìm vào giấc ngủ bình yên sau bao đêm dài thao thức vì nước vì dân. Trong giấc ngủ vĩnh hằng của Bác có trăng làm bạn – hình ảnh tả thực chính xác và tinh tế – gợi cho ta suy nghĩ về tâm hồn trong sáng, cao đẹp của Bác như vầng trăng, đồng thời cũng gợi nhớ đến sự gắn bó mật thiết của Bác với trăng và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh “trời xanh” ca ngợi sự cao cả, thiêng liêng, bất tử của Bác, khẳng định sự hóa thân của Bác vào tự nhiên của đất nước, của dân tộc. Thế nhưng, dù biết Bác vẫn vĩnh viễn ở đó như trời xanh thì cũng không thể che lấp được một sự thật rằng Bác đã ra đi. Câu hỏi tu từ cuối khổ ba cất lên như tiếng khóc nghẹn ngào, bộc lộ trực tiếp nỗi đau lớn lao không có gì có thể bù đắp được.
Khổ thơ khép lại với bao niềm lưu luyến của tác giả trước lúc ra về.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam là nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng hay rơm rớm, mà là trào – một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm can làm nảy sinh bao ước muốn. Đó là ước muốn được làm chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi bên một người đã hi sinh vì đất nước. Là ước muốn được làm đóa hoa tỏa hương thực hư thoang thoảng, và cũng là ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi điều ước đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác để mãi mãi được làm vơi, khuây khỏa nỗi lạnh lẽo của con người lúc sinh thời đã hi sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng tổ quốc, đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân.
Bài thơ tả lại một ngày Viễn Phương ra thăm lăng Bác từ tinh sương đến trưa, rồi đến chiều. Xuyên suốt bài thơ là sự trào dâng của niềm thương nhớ bao la, xót thương vô hạn, được thể hiện qua đầy ắp những ẩn dụ đẹp và trang nhã từ tận cõi lòng của nhà thơ. Chính vì thế, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báu vào kho tang thi ca viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam ta.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 19
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa. Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.
Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thương, vừa trân trọng, vừa thành kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình. Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.
Hình ảnh những hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc rất tự nhiên mà có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Vì vậy, Lăng Bác như ở giữa làng quê Việt Nam và trở nên gần gũi và giản dị, và lăng Bác cũng như đang ở giữa lòng dân tộc, thật ấm áp vô cùng! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là liên tưởng ngay đến Bác. Một sự kết nối khó có thể hiểu khác được!
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu từ hình ảnh “Mặt trời”:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Có hai “mặt trời”: “mặt trời” trong câu thơ trên là hình ảnh thực, “mặt trời” trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác chính là mặt trời sáng rực, vừa thể hiện cái vĩ đại bất diệt, vừa sự sống cho nhân loại; vừa là mặt trời sáng rực của cách mạng vô sản... Lấy “mặt trời” để ví với Bác, nhà thơ thể hiện niềm tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
Đến khổ thơ thứ 3, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tịnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngừng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thật của mọi người khi được vào thăm lăng, viếng Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. “Trời xanh”, “vầng trăng”, “mặt trời” trở thành một mối tổng hoà của một vũ trụ bao la, kì vĩ. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.
Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm”, bày tỏ niềm mong ước, tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hoá thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa toả hương,” và hơn hết, “muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của lòng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ- biểu tượng như “Mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh”... vừa thân thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị - Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 20
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào đã được Bác đưa vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương - nhà thơ trẻ miền Nam - được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động đến tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ đầu tiên gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên ta cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ nỗi trông chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động nghẹn ngào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam
Tình cảm nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. chính vì thế tình yêu thương của tác giả đối với Bác rất chân thành. Câu thơ rất ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con”. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, tạo nên hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở rộng bài thơ hơn. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt với bao đức tính cao quý: bất khuất, kiên cường,đầy ý chí mạnh mẽ.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
“mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của thiên nhiên, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ. nhưng mặt trời trong lăng còn nhận ra một mặt trời khác “rất đỏ”. Một hình ảnh nhân hóa chan chứa biết bao sự đáng kính đối với Bác Hồ vĩ đại. bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là “mặt trời”, Người là mặt trời rực đỏ màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả. Độc đáo nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác để gợi ra Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ, kết những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những người xếp hàng dài vào lăng trông như những tràng hoa vô tận. nó còn có ý nghĩa tượng trưng: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến những gì tốt đẹp nhất. “dâng bảy mươi chín mùa xuân”, hay chính là hình ảnh hoán dụ về con người đã sống bảy mươi chín đời người sống ngập tràn niềm hân hoan như ngày xuân. Ánh sáng nơi Bác được nhà thơ miêu tả như một vầng trăng hiền dịu:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ liên tưởng thật thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến dỗ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Bác của chúng ta là vậy. “mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện cho sự vĩ đại, rực rỡ của con người với sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy đau nhói trong lòng khi đứng trước thi thể Người. “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này. Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa, để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng “tuôn trào nước mắt” luyến tiếc khi chia tay bịn rịn không muốn xa nơi Bác an nghỉ. Ở câu thơ này tác giả không sử dụng nghệ thuật nào, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động. Tác giả thay mặt cho nhân dân miền nam bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong phút giây nhưng không bao giờ tác giả muốn xa bác vì Người ấm áp, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của tác giả cũng là mong ước nguyện chung của những người đã hoặc chưa một lần gặp Bác.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Điệp ngữ “muốn làm” lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước muốn của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ một cách khéo léo. Mộ mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hàng ngàn ca hót cho Bác yên ngủ, làm hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muốn đóa hoa khác làm đẹp cho nơi bác yên nghỉ. Và vui sướng nhất khi làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh chừng cho giấc ngủ Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim ấy, cây tre ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ yên bình. Viễn Phương nói lên mong ước cũng như ước nguyện tất cả chúng ta muốn gần Bác để lớn lên một chút
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người vô cùng giản dị. Đất nước ta mất bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ truyền được cảm xúc của mình đến người đọc chính bở cảm xúc của tác giả cũng là cảm xúc của đồng bào nam bộ nói riêng, của dân tộc nói chung.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều