5+ Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

5+ Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)

Quảng cáo

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1

Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận ảo lão nỗi buồn nhân thế. Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận tràn đầy một khí thế mới. Đó là niềm vui chiến thắng, là sự hòa nhập và trải nghiệm của tác giả vào cuộc sống của nhân dân. Tác giả hòa cùng nhịp độ lao động của con người trong thời kì xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. "Đoàn thuyền đánh cá" chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Huy Cận thể hiện rõ niềm hứng khởi, hăng say lao động của con người trong thời đại mới. Đặc biệt đoạn thơ thứ ba, thứ tư của tác phẩm đã gây ấn tượng sâu đậm với người đọc về bức tranh hoành tráng của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

Ở vị trí phần giữa của tác phẩm, đoạn thơ nổi bật với vẻ đẹp tráng lệ của biển khơi và vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của đoàn thuyền, của con người trong lao động. Tất cả được viết lên bằng trí tưởng tượng mãnh liệt, bằng niềm hứng khởi bay bổng và bút pháp tạo hình đầy sáng tạo.

Mở đoạn đoạn thơ là hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường:

Quảng cáo

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả,chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này thể hiện rất rõ sự thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận trước và sau cách mạng . Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm vóc làm chủ cuộc đời. Con người đã chủ động, mạnh mẽ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm : ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động biến công việc nặng nhọc trên biển thành một cuộc chiến đấu đầy hăm hở, với khí thế đua tranh. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn “mặt trời xuống biển”, "sóng đã cài then”, "đêm sập cửa” thì ở đây, con người đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Có thể nói, lòng tin yêu thiên nhiên, con người và cảm hứng lãng mạn bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp, vừa hoành tráng, lại vừa thơ mộng.

Quảng cáo

Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, "vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca. Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:

Quảng cáo

"Đêm thở: sao lùa nước Hạ long"

Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang“lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình

Có thể nói, với hình ảnh thơ tráng lệ, âm hưởng hào hùng, bút pháp lãng mạn, bay bổng, nhà thơ đã khắc họa thành công một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, và vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của đoàn thuyền, của con người lao động giữa biển trời bao la. Đọc đoạn thơ, bài thơ ta càng yêu hơn, trân trọng hơn vẻ đẹp của cảm hứng say sưa, niềm vui phơi phới trước cuộc đời và tình yêu thiên nhiên, con người thiết tha của nhà thơ Huy Cận.

Dàn ý Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ " Đoàn thuyền đánh cá".

Giới thiệu nội đoạn thơ thứ 3, thứ 4

2. Thân bài

- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

- Khái quát các đoạn thơ trước và dẫn dắt tới nội dung của đoạn thơ thứ ba, thứ tư.

* Cảm nhận nội dung của đoạn thơ thứ 3:

Tác giả cho bạn đọc thấy con tàu đánh cá như tàu chiến, những ngư dân như những người anh hùng trên biển khơi:

Hình ảnh mạnh mẽ, hùng tráng: con thuyền đi nhanh như “lái gió”, cánh buồm trắng ôm trọn mặt trăng, thuyền đi “giữa mây cao với biển bằng”

Động từ “lướt”: cảm giác đi như bay, mạnh mẽ

⇒ Hình ảnh đẹp, con thuyền đi trên biển như thuyền có phép lạ bay trên mây.

Việc đánh cá tài tình và đầy chiến thuật như đánh giặc: thuyền ra “dặm xa dò bụng biển”, “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Những công việc được thực hiện một cách hào hứng, vui vẻ: ngư dân gõ mạn thuyền cho cá bơi vào lưới, giống như “hát bài ca gọi cá vào”.

* Cảm nhận về vẻ đẹp và sự đa dạng của các loài cá quý trong khổ thơ thứ 4:

Tác giả liệt kê tên các loại cá ở biển như cá nhụ, cá chim, cá đé... những loại cá mang giá trị kinh tế

Biển không chỉ giàu mà còn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của muôn loài cá (lấp lánh, đen hồng, vàng chóe) tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hóa

Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống (tiếng sóng nước hòa với nhịp gõ thuyền, hòa với sự khoáng đạt của trời cao biển rộng)

→ Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ. Không còn cảm giác cô đơn, nhỏ bé của con người khi đối diện với trời rộng, sông dài trong thơ Huy Cận.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của hai khổ thơ.

Bày tỏ cảm nhận về nội dung bài thơ và niềm vui hăng say của con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2

Vẻ đẹp của lao động và người lao động được Huy Cận thể hiện trong khung cảnh kì vĩ tráng lệ của thiên nhiên vùng biển:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cảm hứng lãng mạn của nhà thơ đã tạo nên những hình ảnh rực rỡ và lộng lẫy như những bức tranh sơn mài rộng lớn và huyền ảo nối tiếp nhau trong bài thơ. Cảnh đoàn thuyền lướt đi trên biển đêm trăng và chuẩn bị đánh cá được tả như bức tranh lãng mạn hào hùng. Lái gió với buồm trăng thì trăng, gió, mây đã hòa nhập với con thuyền. Chuẩn bị bao vây, buông lưới như đang dàn đan thế trận, khẩn trương mà phấn khởi, tự tin. Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.

Sự giàu có, đẹp đẽ của cá biển được tác giả miêu tả hết sức duyên dáng, lấp lánh màu sắc như bức tranh sơn mài trong bể cá khổng lồ:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Những loài cá khác nhau được gọi tên, được tả với những đặc điểm hình dáng và hoạt động cụ thể. Cái đuôi cá được gọi một cách tình tứ là em, ánh trăng vàng chóe lên, lấp lánh cùng làn nước. Biển đêm với ánh trăng tan, in trong lòng biển. Cảnh vật thật lung linh huyền ảo như thế giới thần tiên, cổ tích. Những người dân lao động đang làm việc trong khung cảnh và niềm vui như thế.

Như vậy, 2 khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3

Ở khổ thơ thứ ba và bốn bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", Huy Cận không chỉ cho ta thấy được sự hòa hợp giữa thiên nhiên vũ trụ với con người trong lao động mà ông còn ca ngợi biển giàu đẹp như đêm hội.

Thật vậy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật đẹp qua hai dòng thơ đầu:

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng".

Cùng động từ lái lướt kết hợp với cảm hứng lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã nâng hình ảnh con thuyền lên sánh ngang với tầm vóc vũ trụ khi có gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm. Con thuyền thực mà như con thuyền mộng khi lướt giữa một khoảng trời nước mênh mông, cao rộng, khoáng đạt, mây cao, biển bằng, con thuyền đánh cá vốn lam lũ nhỏ bé nay đã trở nên thật lớn lao, nên thơ. Công việc đánh đánh cá vất vả nặng nhọc được miêu tả thật hào hùng bằng các động từ "đậu, dò, dàn đan", khiến công việc như một thế trận mà những người dân chài là những anh hùng chinh phục biển khơi.

Đến đây, tầm vóc của con thuyền và con người không còn cái cảm giác bé nhỏ lẻ loi khi đối diện với biển khơi. Bên cạnh đó, khổ thơ thứ tư chính là lời ngợi ca biển giàu của tác giả:

"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng".

Chim, thu, nhụ, đé,... là những loài cá quý vùng biển nước ta, không chỉ đem lại giá trị về mặt kinh tế mà còn tô điểm thêm cho vẻ đẹp của biển. Hình ảnh ẩn dụ "đuốc đen hồng" đã gợi tả những con cá song giống như ngọn đuốc đang lao đi trong luồng nước lấp lánh cùng với đuôi quẫy trăng vàng chóe là hình ảnh thơ đẹp nhất. Khổ thơ mang nhiều tính từ chỉ màu sắc: "đen, hồng, vàng chóe,.." hòa quyện với nền đen của màu đêm tạo ra bức tranh sơn màu lóng lánh, lãng mạn sắc màu.

Tiếp đến, một hình ảnh lạ, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận đã làm cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động. Đó là hình ảnh "Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long", hình ảnh nhân hóa đẹp, biển đêm được miêu tả như một sinh vật; nó thở, sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4

Trong thơ ca Việt Nam, Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới với những tác phẩm giàu cảm hứng, sáng tạo, phản ánh vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống và tâm hồn con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, khắc họa hình ảnh lao động của những người dân chài và sự hòa quyện giữa thiên nhiên, con người với khát vọng vươn lên. Đặc biệt, khổ thơ thứ ba và thứ tư trong bài thơ này mang đến cho người đọc những hình ảnh sống động về thiên nhiên bao la và công việc lao động miệt mài của con người, qua đó thể hiện một tư tưởng sâu sắc về sức mạnh lao động và khát vọng chinh phục thiên nhiên.

Khổ thơ thứ ba mở đầu với câu thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” không chỉ miêu tả hình ảnh thuyền ra khơi mà còn chứa đựng trong đó sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Câu thơ này gợi lên hình ảnh một con thuyền đang lướt nhẹ nhàng trên mặt biển rộng lớn, giữa không gian bao la của trời và biển. Buồm thuyền không chỉ đơn thuần là cánh buồm tiếp sức gió, mà còn là vầng trăng – biểu tượng của sự mộng mơ, lãng mạn nhưng cũng đầy mạnh mẽ. Hình ảnh “buồm trăng” làm nổi bật vẻ đẹp của lao động, của khát vọng vươn tới một tương lai tươi sáng, mạnh mẽ, giống như vầng trăng dẫn lối cho thuyền ra khơi.

Tiếp theo là câu thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng”, với động từ “lướt” nhẹ nhàng, lướt đi trên sóng nước, thuyền hiện lên như một sinh thể sống động, hòa quyện với không gian thiên nhiên rộng lớn. Cảnh tượng thuyền di chuyển giữa “mây cao với biển bằng” không chỉ gợi lên hình ảnh thiên nhiên bao la, vô tận mà còn phản ánh sự tự do, mạnh mẽ của con người trong quá trình lao động. Thuyền không phải là một vật thể tĩnh, mà là một hình ảnh đầy sức sống, di chuyển giữa trời đất bao la, mang theo khát vọng chinh phục đại dương.

Hình ảnh tiếp theo trong khổ thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” tiếp tục vẽ nên một không gian rộng lớn, mênh mông của biển cả. “Dò bụng biển” là một cách nói rất sinh động và có chiều sâu, thể hiện công việc tìm kiếm của những ngư dân khi ra khơi. Họ không chỉ đơn giản là đánh cá mà còn là những người khám phá, tìm hiểu và chinh phục những điều bí ẩn của biển cả. Những từ ngữ như “dặm xa” và “dò bụng biển” tạo ra một không gian mênh mông, đầy thử thách, qua đó phản ánh khát vọng không ngừng nghỉ, sự kiên cường và lòng dũng cảm của con người khi đối mặt với thiên nhiên.

Khổ thơ tiếp theo miêu tả sự phong phú của biển qua hình ảnh các loài cá, “Cá nhụ cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Những loài cá được nhắc đến không chỉ có giá trị về mặt hình ảnh mà còn phản ánh sự phong phú và đa dạng của biển cả. Mỗi loài cá đều mang một đặc điểm riêng biệt, từ cá nhụ, cá chim đến cá đé, tất cả đều tạo nên một bức tranh sinh động, đầy màu sắc của thiên nhiên. Hình ảnh “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” càng làm tăng thêm vẻ đẹp kỳ diệu của biển cả trong đêm tối, khi ánh sáng từ các loài cá phản chiếu trên mặt nước, tạo thành những vệt sáng huyền bí. Đây là một hình ảnh đặc sắc trong bài thơ, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và công việc lao động của con người.

Cuối cùng, câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là một hình ảnh rất sinh động và giàu cảm xúc. Đuôi cá quẫy lên, tạo ra những vệt sáng vàng trên mặt nước, như những vệt trăng phản chiếu trong đêm. Hình ảnh này vừa làm nổi bật vẻ đẹp huyền bí của biển đêm, vừa thể hiện sự gắn kết giữa lao động và thiên nhiên. Cái đuôi cá quẫy lên không chỉ là hình ảnh của sự sống, mà còn là sự kết nối giữa con người và biển cả, giữa lao động và thiên nhiên.

Câu thơ cuối “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” mang đến một hình ảnh rất đặc biệt, trong đó đêm không chỉ là không gian yên tĩnh mà còn có sự sống, có hơi thở. Ánh sáng từ sao lùa vào mặt nước, tạo thành những vệt sáng huyền bí, vừa thực vừa mơ màng. Hình ảnh này không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn phản ánh sự gắn kết, hài hòa giữa con người, lao động và thiên nhiên.

Khổ thơ thứ ba và thứ tư trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa thành công bức tranh về thiên nhiên và công việc lao động của con người. Hình ảnh thuyền ra khơi, biển cả bao la, cá phong phú và công việc lao động không chỉ mang lại sự tươi mới cho tác phẩm mà còn phản ánh sự hòa hợp, gắn kết giữa con người và thiên nhiên. Từ đó, bài thơ gửi gắm thông điệp về khát vọng vươn lên, chinh phục thiên nhiên và sự mạnh mẽ của con người trong cuộc sống.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5

Huy Cận, với những tác phẩm thơ nổi bật, đã thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên, con người và cuộc sống lao động. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một minh chứng cho tài năng sáng tạo của ông, khi xây dựng nên bức tranh sinh động về cuộc sống lao động của người dân chài, qua đó thể hiện những giá trị sâu sắc về khát vọng và sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Khổ thơ thứ ba và thứ tư trong bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật thiên nhiên mà còn thể hiện sự sáng tạo, lao động miệt mài và khát vọng vươn lên của con người.

Mở đầu với câu thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”, Huy Cận đã vẽ nên hình ảnh một con thuyền vững chãi ra khơi, với buồm là hình ảnh vầng trăng - biểu tượng của sự sáng tạo, mơ mộng và ánh sáng dẫn lối. Câu thơ này gợi lên một sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và lao động. Buồm là công cụ lao động của con người, còn trăng là nguồn ánh sáng thiên nhiên, là sự hướng dẫn, là sức mạnh vô hình hỗ trợ con người trong suốt hành trình ra khơi. Hình ảnh này không chỉ thể hiện sự mạnh mẽ của thuyền mà còn khắc họa được sức mạnh của lao động và khát vọng vươn tới một tương lai tươi sáng.

Tiếp đến, câu thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng” miêu tả hình ảnh thuyền lướt đi trong không gian vô tận của trời và biển. Động từ “lướt” mang đến cảm giác nhẹ nhàng, như sự tự do trong công việc lao động. Thuyền di chuyển giữa mây và biển, tạo thành một không gian rộng mở, không có giới hạn, là sự mở ra những cơ hội mới cho người lao động.

Khổ thơ tiếp theo miêu tả công việc của những ngư dân khi ra khơi: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển”. Hình ảnh “dặm xa” và “dò bụng biển” vừa thể hiện sự kiên trì, chăm chỉ của con người trong công việc lao động vừa là biểu tượng của sự tìm tòi, khám phá những vùng biển sâu, nơi chứa đựng nhiều điều kỳ thú. Công việc đánh cá không chỉ là một hành động giản đơn mà còn mang tính khám phá, thử thách sự dũng cảm và khéo léo của con người.

Hình ảnh các loài cá trong câu thơ “Cá nhụ cá chim cùng cá đé” là một minh chứng cho sự phong phú và đa dạng của biển cả, nơi mà con người có thể tìm thấy nhiều nguồn sống. Sự phong phú của biển là thành quả của lao động sáng tạo và chăm chỉ của con người, nơi con người khám phá và chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này gợi lên sự đa dạng trong công việc lao động và là biểu tượng của sức mạnh vô hạn của biển cả.

Câu thơ cuối cùng trong khổ thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là hình ảnh của sự chuyển động, sinh động trong công việc lao động. Đuôi cá quẫy lên tạo ra những vệt sáng vàng như những vệt trăng, vừa là hình ảnh thiên nhiên huyền bí vừa là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của biển cả và con người trong công việc lao động.

Khổ thơ thứ ba và thứ tư trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” đã thể hiện một cách xuất sắc sự kết hợp giữa thiên nhiên, lao động và khát vọng của con người. Những hình ảnh về thuyền, biển, cá và công việc lao động không chỉ mang lại sức sống cho tác phẩm mà còn thể hiện sự tự do, khát vọng, sáng tạo và sức mạnh của con người trong cuộc sống.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6

Trong không khí thi ca sôi nổi của nền văn học kháng chiến chống Pháp, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận nổi lên như một bản hùng ca tráng lệ, kết hợp giữa cái hào hùng của người lao động mới và chất lãng mạn của thi ca cổ điển. Khổ thơ thứ ba và thứ tư của tác phẩm chính là điểm nhấn đậm nét cho sự hài hòa ấy, khi vừa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, vừa khắc họa tầm vóc vĩ đại của con người trong cuộc chinh phục biển cả.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Khổ thơ thứ ba mở ra bằng một hình ảnh vô cùng nên thơ và bay bổng. Con thuyền đánh cá không chỉ lướt sóng bằng sức người mà dường như đang được dẫn dắt bởi thiên nhiên: lái gió, buồm trăng. Những yếu tố như “gió”, “trăng”, “mây cao”, “biển bằng” làm cho không gian trở nên huyền ảo, thơ mộng, đậm chất lãng mạn cổ điển. Ở đây, nhà thơ không chỉ miêu tả thực cảnh mà còn đang phóng chiếu một tầm nhìn nghệ thuật: con thuyền như hóa thân của khát vọng, của tự do, của con người trong vũ trụ.

Không gian mở ra với chiều cao của mây, chiều sâu của “bụng biển”, và chiều rộng của “biển bằng”, tạo nên một trường liên tưởng về sự bao la vô tận của vũ trụ. Nhưng giữa khung cảnh ấy, con người không hề nhỏ bé hay bị nuốt chửng. Ngược lại, con người làm chủ hoàn toàn không gian ấy bằng tư thế chủ động: “lái gió”, “lướt”, “ra đậu”, “dò bụng biển”, “giăng lưới”. Những động từ mạnh mẽ ấy biểu hiện sức mạnh của tập thể lao động và tư thế hiên ngang của người dân chài trong công cuộc lao động xây dựng đất nước.

Tiếp nối mạch cảm xúc ấy, khổ thơ thứ tư đưa người đọc vào một thế giới đầy màu sắc và sự sống của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Chỉ một khổ thơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng sự phong phú, giàu có của biển cả quê hương. Việc liệt kê tên các loài cá như “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” thể hiện sự trù phú của biển Đông – nguồn sống quý giá và bền vững cho người dân lao động. Cách sử dụng hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” khiến cho biển đêm không còn tối tăm mà bừng sáng, rực rỡ như một lễ hội ánh sáng. Mỗi chú cá không chỉ là sản vật, mà còn như những sinh thể mang vẻ đẹp lung linh, huyền bí.

Câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” vừa là một cách nhân hóa sinh động, vừa đậm chất lãng mạn. Hình ảnh ấy khiến cho cá không còn đơn thuần là đối tượng của lao động, mà đã trở thành một phần trong bức tranh nghệ thuật sống động nơi biển đêm. Chính hình ảnh này đã khiến nhiều độc giả nhớ mãi bởi sự bay bổng và giàu hình tượng.

Câu cuối cùng – “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” – là một sáng tạo độc đáo. Đêm không còn tĩnh lặng, mà như một sinh thể sống, biết “thở”, biết chuyển động. “Sao lùa nước” là một phép nhân hóa táo bạo, chuyển động vũ trụ được hòa quyện vào cảnh lao động. Thiên nhiên và con người không còn ranh giới, tất cả cùng gắn bó trong một mối tương giao kỳ diệu.

Tổng thể hai khổ thơ này là sự thăng hoa của cảm xúc và hình ảnh. Thiên nhiên và con người không chỉ song hành, mà còn hòa quyện để tạo nên một bức tranh thi vị. Ở đó, ta thấy được tầm vóc và vẻ đẹp của người lao động trong thời đại mới – họ không chỉ làm việc mà còn sống, tận hưởng, và biến cuộc sống lao động thành một bản nhạc đầy cảm hứng.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ là khúc tráng ca về vẻ đẹp của biển cả mà còn là khúc ngợi ca sức mạnh của tập thể người dân lao động Việt Nam sau Cách mạng. Trong khổ thơ thứ ba và thứ tư, Huy Cận đã thực sự vẽ nên một bức tranh tuyệt mỹ, nơi mà con người vươn lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, đồng thời giữ được tâm hồn lãng mạn và niềm yêu đời cháy bỏng.

Mở đầu khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền ra khơi mang tầm vóc của một sinh thể mạnh mẽ, tự tin: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”. Đây không phải là thuyền đánh cá thông thường mà đã được thi vị hóa như một con thuyền huyền thoại trong sử thi. “Buồm trăng” là một hình ảnh giàu chất tượng trưng, nó gợi lên sự lãng mạn và vẻ đẹp kỳ ảo của biển đêm. Trăng không còn là vật thể xa vời trên bầu trời mà đã trở thành một phần của con thuyền, nâng đỡ và soi sáng hành trình của người lao động.

“Lướt giữa mây cao với biển bằng” – hình ảnh này tạo cảm giác con thuyền như đang bay giữa tầng không gian mênh mông, rộng mở. Không gian ấy cao, rộng, thoáng đạt – nơi con người trở nên lớn lao và vững chãi. Trong câu thơ này, thiên nhiên không còn là lực lượng đáng sợ, mà trở thành người bạn đồng hành, người giúp sức cho hành trình lao động.

Câu thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” sử dụng hình ảnh nhân hóa thú vị – “dò bụng biển” – cho thấy sự táo bạo và đầy bản lĩnh của con người. Họ như những chiến binh khám phá đại dương. Và hành động “dàn đan thế trận lưới vây giăng” lại càng củng cố tư thế chủ động ấy. Việc đánh cá không còn đơn thuần là một hoạt động sinh kế, mà đã trở thành một cuộc chiến, một nghệ thuật, một “trận đánh” đầy mưu lược, bản lĩnh và sáng tạo.

Sang khổ thơ thứ tư, bức tranh về sản vật biển cả hiện lên sinh động và tràn đầy màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé, cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Các loài cá không chỉ xuất hiện với số lượng phong phú mà còn lung linh sắc màu, tạo cảm giác vui tươi, ấm áp. Biển không còn là nơi đầy sóng gió, hiểm nguy, mà là nơi chứa đựng sự sống và nuôi dưỡng bao ước mơ.

Câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là một sự kết hợp tuyệt diệu giữa chất hiện thực và chất thơ. Cá không còn chỉ là vật thể khai thác, mà đã trở thành một phần của thiên nhiên, của nghệ thuật. Hành động “quẫy trăng” như một vũ điệu, như sự giao hòa giữa trời và nước, giữa động vật và ánh sáng.

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là câu thơ kết thúc khổ bốn đầy ám ảnh. Ở đây, không gian biển trở thành một sinh thể có hồn. “Đêm thở” – một cách diễn đạt lạ mà quen, đầy tính sáng tạo, khiến cho bức tranh thiên nhiên như được thổi hồn, sống động và linh thiêng. Hình ảnh “sao lùa nước Hạ Long” là một liên tưởng vừa lãng mạn vừa gợi tả, làm nên một kết thúc huyền diệu cho đoạn thơ.

Hai khổ thơ đã đem đến cái nhìn mới mẻ, giàu cảm xúc về lao động và thiên nhiên. Ở đó, Huy Cận không chỉ miêu tả mà còn ca ngợi, tôn vinh con người, biến họ thành chủ thể sáng tạo, làm nên vẻ đẹp cho đất nước. Chính vì thế, “Đoàn thuyền đánh cá” trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến, không chỉ giàu ý nghĩa hiện thực mà còn bay bổng với chất thơ tuyệt vời.

Phân tích khổ 3,4 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8

Giữa làn sóng của thời đại mới, khi con người lao động được đặt vào vị trí trung tâm trong thơ ca, Huy Cận đã viết Đoàn thuyền đánh cá như một bản hùng ca bất tận ca ngợi vẻ đẹp lao động và thiên nhiên đất nước. Trong hành trình khắc họa bức tranh lao động tập thể giữa biển khơi, khổ thơ thứ ba và thứ tư nổi bật như một khúc nhạc ngợi ca hào hùng, kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, giữa trí tuệ và cảm xúc.

Khổ thơ thứ ba mở ra bằng hình ảnh “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”, một câu thơ chứa đựng chất thơ giàu tưởng tượng và lãng mạn. Ở đây, gió không chỉ là sức đẩy tự nhiên mà như người bạn đồng hành với đoàn thuyền; còn cánh buồm, tưởng chừng là vật dụng quen thuộc, lại hiện lên như tấm gương bắt trọn vầng trăng vàng giữa đêm khuya. Câu thơ đưa người đọc đến một không gian hư thực đan xen, khi con người điều khiển không chỉ con thuyền, mà dường như đang cưỡi lên gió, chạm vào trăng, thể hiện thế làm chủ và sự hòa hợp tuyệt vời giữa con người và vũ trụ.

Sự di chuyển của đoàn thuyền tiếp tục được đặc tả trong câu thơ “Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Hình ảnh “lướt” tạo cảm giác mượt mà, mạnh mẽ, như thể con thuyền đang được nâng đỡ bởi cả đất trời, đưa người dân chài tiến ra đại dương trong sự hùng tráng. Không gian rộng lớn “mây cao” và “biển bằng” càng làm nổi bật thế chủ động, tinh thần phiêu lưu, dấn thân của những con người lao động giản dị mà dũng cảm.

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển” là câu thơ thể hiện hành trình đầy thách thức. Biển cả là nơi tiềm ẩn vô vàn tài nguyên nhưng cũng là thế giới kỳ bí, nguy hiểm. “Dò bụng biển” là hành động khám phá, chinh phục, khiến hình ảnh người lao động trở nên dũng cảm, đầy bản lĩnh. Không chỉ ra khơi đánh cá, họ đang thực hiện một sứ mệnh: làm chủ thiên nhiên, khai thác của cải nuôi sống quê hương.

Câu thơ cuối của khổ ba “Dàn đan thế trận lưới vây giăng” khơi gợi một khung cảnh gắn bó giữa tập thể. Những ngư dân không hoạt động đơn lẻ mà phối hợp như những người lính trong một trận đánh lớn. “Thế trận” không chỉ là ẩn dụ quân sự mà còn là biểu tượng cho sự tổ chức, kỷ luật và trí tuệ của người lao động. Qua đó, Huy Cận đã khẳng định tư thế làm chủ thiên nhiên của con người thời đại mới – mạnh mẽ, sáng tạo, đoàn kết.

Bước sang khổ thơ thứ tư, một bản hòa ca sinh động và tráng lệ về sản vật của biển khơi được cất lên. Tác giả liệt kê một loạt các loài cá: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”, những sản vật quen thuộc, gợi nhắc đến sự phong phú và đa dạng của biển Đông – cái nôi nuôi dưỡng biết bao thế hệ ngư dân. Việc liệt kê ấy không chỉ là tả thực, mà còn là biểu hiện lòng biết ơn, niềm vui và tự hào về thiên nhiên quê hương.

“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” là một hình ảnh giàu tính thị giác. Từ “lấp lánh” gợi ánh sáng phản chiếu từ những thân cá giữa đêm tối, như ngọn “đuốc” rực cháy, thắp sáng không gian biển khơi. Đêm không còn là bóng tối tĩnh lặng nữa, mà trở nên lung linh và sống động, được “thắp sáng” bởi chính sản vật mà con người thu hoạch được. Hình ảnh ấy như khẳng định niềm tin vào thành quả lao động, vào những ngày mai ấm no hơn.

Câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là một ví dụ xuất sắc cho nghệ thuật nhân hóa và lãng mạn hóa của Huy Cận. Con cá – vật thể vô tri – giờ đây như một “em bé” tinh nghịch, “quẫy” ánh trăng làm nước bừng sáng. Câu thơ không chỉ giàu nhạc điệu mà còn gợi chất thơ hồn nhiên, tràn đầy sức sống. Trăng và cá, hai biểu tượng của thiên nhiên, dường như đang chơi đùa giữa biển khơi, làm cho cảnh vật thêm phần nên thơ, huyền ảo.

Câu thơ kết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là một hình ảnh giàu tính tượng trưng. “Đêm thở” là cách nói nhân hóa, khiến đêm không còn tĩnh lặng mà trở nên sống động như một cơ thể biết thở, biết cựa mình. “Sao lùa nước Hạ Long” là sự hòa quyện giữa ánh sáng của trời và nước, thể hiện vẻ đẹp lộng lẫy, bí ẩn của thiên nhiên Việt Nam. Câu thơ khép lại khổ thơ bằng một hình ảnh nên thơ, sâu sắc, như một giấc mơ đẹp về biển cả quê hương.

Tóm lại, hai khổ thơ đã không chỉ miêu tả chân thực hoạt động lao động trên biển, mà còn mang đến một cái nhìn thẩm mỹ, lãng mạn và đầy tự hào về thiên nhiên đất nước. Huy Cận đã nâng tầm con người lao động thành những người nghệ sĩ giữa đại dương, khơi gợi trong lòng người đọc một niềm yêu mến và trân trọng cuộc sống lao động giản dị mà phi thường.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học