5+ Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ (điểm cao)

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

5+ Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ (điểm cao)

Quảng cáo

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 1

Có thể nói, trong bầu trời thi ca Việt Nam, Hàn Mặc Tử giống như một ngôi sao chổi bỗng chốc vụt qua và để lại những vầng sáng chói lòa. Cuộc đời của ông tuy ngắn ngủi nhưng những áng thơ của sẽ vẫn còn mãi với thời gian. Mặc dù đã ra đời khá lâu nhưng Đây thôn Vĩ Dạ vẫn để trong lòng người đọc nhiều câu hỏi tự vấn. Đây là một bài thơ thi vị về phong cảnh trữ tình nơi xứ Huế hay là tiếng lòng tương tư của tác giả?

Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.

Quảng cáo

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ thật sinh động, độc đáo.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Quảng cáo

Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn Vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mĩ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.

Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:

“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đấy chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài

a) Bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

- Lời trách móc nhẹ nhàng, duyên dáng, thân tình, cũng có thể là lời nhà thơ tự vấn lòng mình.

- Nhờ ánh nắng, cảnh vật như bừng sáng hơn.

- “Nắng mới lên” : cái nắng sớm ban mai, nhẹ nhàng, tinh khiết.

=> Câu thơ làm bật lên vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ.

b) Hình ảnh con người xứ Huế đôn hậu, dịu dàng.

- “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: hình ảnh con người hiện lên với nét đôn hậu, dịu dàng.

- Hình ảnh con người bất ngờ xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi sáng thơ mộng khiến bức tranh cuộc sống thêm nồng ấm.

=> Nét đẹp hài hòa giữa cảnh và người đã làm cho xứ Huế trở nên thơ mộng và thi vị hơn.

c) Đặc sắc nghệ thuật.

- Ngôn ngữ điêu luyện.

- Bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng.

- Câu hỏi tu từ, điệp từ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác...

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận của em về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.

Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mỹ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.

Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:

“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 3

Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình "khuấy" mãi khống thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Hoàng Thị Kim Cúc- một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Hàn Mặc Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử yêu thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ. Năm 1939 biết Tử bị mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhờ, thúc giục, Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh có thuyền và bến, kèm theo mấy dòng hỏi thăm để an ủi mà không kí tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử. Đọc bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" người vô tâm mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu :

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Đây thôn Vĩ Dạ cho ta gặp một cái tôi trữ tình đau thương và khao khát. Câu thơ mở đầu phảng phất chút riêng tư của tác giả:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu thơ mở đầu là câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái. Vừa là câu hỏi nhưng lại gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi thiết tha của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Song đây cũng là lời nhà thơ tự trách mình, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa mong được về lại thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng chứa bảy thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, lời trách nhẹ nhàng mà tha thiết và bâng khuâng. Thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà lời mời lại tha thiết đến vậy? Câu hỏi thấm thía một nỗi niềm nuối tiếc, day dứt vọng lên từ trong lòng nhà thơ khi giờ đây dù thôn Vĩ có thơ mộng đến đâu thì thi sĩ cũng chỉ có thể trở về trong tâm tưởng. Thơ Hàn Mặc Tử là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" có thể là câu tự văn của chính bản thân ông. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đặt ra ở câu đầu tiên của bài thơ

Đối với Hàn Mặc Tử, câu thơ vừa ngọt ngào vừa gợi mở vừa trách móc ấy đã làm hồi sinh, bừng dậy trong nhà thơ bao kỷ niệm về một Vĩ Dạ mộng và thơ. Ngay sau đó là thế giới sự sống hiện ra qua cảnh và người thôn Vĩ, qua hoài niệm của thi nhân ở bao thơ tiếp:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hình ảnh "Nắng hàng cau nắng mới lên" gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày vì thế nắng hàng cây là nắng thanh tân, tinh khôi. Ánh nắng chiếu vào thân cau đổ bóng xuống khu vườn, thân cau thẳng lại chia thành nhiều đốt điều đặn bởi vậy mà cau như cây thước của thiên nhiên được dựng sẵn trong vườn để đo mức nắng. Loài cây ấy lại chiếu rọi bởi một một thứ ánh nắng đặc biệt, nắng mới lên, nắng đầu tiên của một ngày ấm áp.

Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Thị Kim Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Dạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muôn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh. Từ khi xưa, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc''. Nắng bình minh thì đẹp thật, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng trôi qua rất nhanh.

Khu vườn "mướt" hàm chứa ý nghĩa của tính từ ướt và láng bóng thể hiện vẻ mượt mà, non tơ, óng chuốt, mơn mởn xanh tươi. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải trầm trồ say đắm. Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc: Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Trong ánh nắng của buổi sớm mai, hình ảnh vườn tược buổi bình minh hiện lên đầy sức sống. Ta có thể hiểu được thông qua điểm nhìn bao quát toàn bộ khu vườn của tác giả. Tất cả hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Câu thơ là một bức tranh quê rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hòa vẻ đẹp cao quý, cao sang của đối tượng. Qua đó thấy được niềm thiết tha với cuộc đời trần thế của chủ thể trữ tình.

Trong khu vườn xinh đẹp ấy thấp thoáng có bóng người sau khóm trúc. Hình ảnh con người thôn Vĩ hiện lên với khuôn mặt chữ điền

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền".

Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu:

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường máy"; nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" ; nó kết lại trong một lời trách:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Hàn Mặc Tử. Khi ông viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Thị Kim Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. Hơn nữa, ông lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Dạ" nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Tử.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 4

Nếu nhân loại không còn khao khát nữa

Và nhà thơ nghề chẳng kẻ nào yêu

Người - Thi sĩ - cuối cùng là Hàn Mặc Tử

Vẫn hiện lên ở đây đợi chờ

(Tràn Ninh Hổ)

Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình "khuấy" mãi không thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người quá ngắn, Hàn say mê bốn thiếu nữ (Hoàng Cúc,-Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương). Hoàng Cúc, một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Tử là nhân viên Sở Đạc điền, còn cha Hoàng Cúc là chủ sở. Hàn thầm yêu Hoàng Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè... Năm 1939 biết Tử bị mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhờ, thúc giục Hoàng Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh Huế và mấy dòng hỏi thăm mà không kí tên. Hàn lầm tưởng đó là cảnh "Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay đêm trăng?“. Để tạ lòng cố nhân, Tử gửi tăng Hoàng Cúc bài Đây thôn Vĩ Dạ. Đọc bài thơ này, người vô tâm mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu :

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ phải gắn với mối tình đầu của Tử và Hoàng Cúc. Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ - đặc biệt là ý kiến "Hoàng Cúc đã chỉ cho Hàn Mặc Tử một tấm hình cô mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh (...), và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm thôn Vĩ Dạ nên nhiều người đã hiểu câu thơ mở đầu bài thơ là lời trách nhẹ nhàng, nhè nhẹ - đúng là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế, trách mà cứ như là chào mời khách về thăm thôn Vĩ. Những lời bình ấy xem ra có lẽ thoát văn bản. Căn cứ vào đâu mà nói: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?" là câu hỏi trách móc của một thôn nữ. Hơn nữa, như Hoàng Cúc khẳng định: sau tấm bưu ảnh, không có lời trách móc nào. Làm sao có thể trách người đang từng giờ, từng phút đợi tử thần đến mang đi? Thơ trữ tình là thơ hướng nội. Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?" có thể là câu tự văn của chính bản thân Tử. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đạt ra ở câu đầu tiên của bài thơ (có lẽ nên đặt dấu chấm hỏi ở vị trí cuối cùng của dòng thơ thứ hai thì hợp lí hơn).

Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Dạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muốn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh. Bao đời nay với người Việt Nam, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp tiên tiến, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc''. Nắng bình minh (nắng mới lên) đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua nhanh như ''hơi rượu say" (bởi vậy liền sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm trăng buồn đến nao lòng).

"Nắng hàng cau nắng mới lên” đi liền với "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà Từ miêu tả khác vườn của Nguyễn Bính, ở đây, người ta thấy xuất hiện trong thơ một khu vườn "mướt quá xanh như ngọc'. "Vườn ai" - vườn có một đối tượng có vẻ như phiếm chỉ, nhưng cũng có thể là vườn của người mình thương, vườn tình của cô gái.

Rõ ràng, khu vườn trong thơ Tử không phải là "vườn hồng", cũng không phải là khu vườn có "bóng hoàng hôn", mà là vườn xanh như ngọc. Phép so sánh khá mới lạ này khiến cho độc giả có thể nghĩ đến "vườn em" là vườn cành vàng lá ngọc. Vào khu vườn ấy đâu phải dễ dàng. Câu thơ thứ tư nói rõ thêm ý tưởng ấy:

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu :

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung

Nhà thơ quá cố Chế Lan Viên đã có ý nghi ngờ, khi ông nêu ra câu hỏi "Con gái mặt chữ điền thì đẹp gì đâu mà Hàn Mặc Tử ca ngợi". Gương mặt chữ điền trong câu thơ là gương mặt ai? Một số người cho rằng: Gương mặt ấy chính là gương mặt Hoàng Cúc, người khác lại nghĩ là gương mặt Hàn Mặc Tử. Hình ảnh lá trúc làm nảy sinh sự tranh cãi khá gay gắt. Lá trúc thực ở ngoài đời hay lá trúc vẽ trên những bức rèm treo trước cửa các nhà quyền quý? Người ta nói: "Văn chương tự cổ bằng cử cũng không phải là không có nguyên cớ. Theo thiển nghĩ của người viết bài này thì trung tâm phát sóng của khổ thơ nằm trong chi tiết thẩm mĩ:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường máy"; nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" ; nó kết lại trong một lời trách:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thốn Vĩ? Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. (Lúc này Hàn Mặc Tử đã yêu người khác). Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bênh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Dạ" nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Tử.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 5

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. Mặc dù có một cuộc sống bi thảm, nhưng thông qua một tâm hồn giàu có, sáng tạo và bí ẩn, người đọc vẫn cảm thấy một tình yêu đau đớn đối với cuộc sống trần thế của mình.

"Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn không thể xóa nhòa trong lòng độc giả. Do đó, qua nhiều thế hệ, mọi người có ba ý kiến về bài thơ: Đó là một bài thơ về giọng nói khắc khoải của một tình yêu bí mật; là một lời yêu thương đối với một quốc gia; là mong muốn được sống trong sự chia sẻ, cảm thông để trở lại với cuộc sống. Câu đầu tiên của bài thơ đã thể hiện một biểu hiện đầy đam mê và cảm động về tình cảm đó.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

"Đây thôn Vĩ Dạ" được Hàn Mặc Tử viết khi anh bị bệnh nan y - bệnh phong, một căn bệnh khiến nhiều người xa lánh và từ chối anh, vì vậy anh luôn có mong muốn được chia sẻ, cảm thông và muốn trở lại với cuộc sống.

Qua ba câu thơ sau đây, phong cảnh thiên nhiên và con người xuất hiện trong nỗi nhớ, trí tưởng tượng của Hàn Mạc Tử rất đơn giản và quen thuộc:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Ánh nắng hàng cau, nắng mới lên là khung cảnh ngập tràn ánh mặt trời sáng sớm. Ánh sáng nguyên sơ, rực rỡ đó chiếu sáng không gian rộng lớn và rộng rãi của Huế. Thông điệp từ "nắng hàng cau" không chỉ thể hiện sự rực rỡ của ánh sáng và sức sống, mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng tới cuộc sống của Hàn Mặc Tử.

Câu thơ đó đã vẽ ra một hàng cau mạnh mẽ đang vươn lên để bắt những tia sáng đầu tiên của buổi sáng. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi vì hình ảnh cau và nắng đã quá quen thuộc với người dân thôn Vĩ. Nhịp điệu của thơ ca 4/3 giống như bước chân của bất kỳ vị khách nào, ngắm nhìn mặt trời mới trên những hàng cau màu xanh lá cây rạng rỡ.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về một đất nước quê hương, là tiếng nói của một người yêu cuộc sống, yêu con người. Bài thơ giống như một bông hoa rực rỡ trong rừng hoa của văn học nước nhà. Qua đó thể hiện tinh thần thuần khiết, yêu đời ngay cả trong thời gian đau khổ, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 6

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Thơ ông đặc trưng bởi sự dịu dàng, đằm thắm và xen chút buồn man mác. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác hay nhất của Hàn Mặc Tử với những cảm xúc chân thật, thiết tha.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã dẫn ra một câu hỏi tu từ. Câu hỏi ấy được đưa ra nhưng lại chẳng mong được đáp trả. Có lẽ, nó là lời trách móc nhẹ nhàng của Kim Cúc về sự ra đi của Mặc Tử. Đã bao lâu rồi anh không về thăm lại xứ Huế mộng mơ, thăm thôn Vĩ quen thuộc mà những ngày trước đây hai người đã từng có biết bao kỉ niệm. Câu thơ gợi lên một cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Nó cũng giống như một lời mời gọi sự quay trở lại quê hương, thăm thôn Vĩ Dạ nên thơ, dịu dàng. Và cũng có khi nó là sự tiếc nuối, nhớ nhung da diết của chính tác giả.

Anh đã xa quê hương mà chưa một lần trở về. Nỗi khát khao được trở về đã thúc giục anh, buộc anh phải tự hỏi chính mình “Sao không về thăm thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một chốn thôn quê bình yên, thơ mộng, đậm chất Huế. Không được trực tiếp tận hưởng không gian ấy nhưng những hình ảnh đẹp nhất, dịu ngọt nhất vẫn đang chảy trong tâm hồn của nhà thơ với sự nhớ mong da diết.

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Hai câu thơ vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mỗi câu thơ lại dẫn dắt ta đến với sự xinh đẹp, mộng mơ của thiên nhiên xứ Huế. Ở những con đường nhỏ của thôn Vĩ, hai hàng cau mọc lên thẳng tắp đón lấy ánh nắng mặt trời. Chúng toát lên một vẻ thanh thoát, cao sang. Những tàu cau vươn mình ra xa, đón lấy những cơn gió nhẹ nhàng cùng tia nắng ấm áp. Mặt trời vừa hé, tỏa ra ánh nắng dịu dàng của buổi sớm mai. Những tia nắng không quá chói chang, nóng bỏng, chúng ấm áp một cách dịu hiền.

Khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ tuy ngắn ngủi nhưng đã khơi gợi được biết bao điều ý nghĩa. Một xứ Huế mộng mơ nhưng căng tràn sức sống, một thiên nhiên trong lành cùng những con người hiền hòa, dịu êm. Tất cả sẽ mãi khắc sâu vào trong lòng bạn đọc với tất cả sự yêu thương và trân trọng tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ, cái chữ “tình” bên trong con người Hàn Mặc Tử tài hoa.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 7

"Thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy". Thật vậy, thơ là điệu cảm xúc, thơ là cứu cánh cho cuộc đời mỗi người. Đối với Hàn Mạc Tử cũng vậy, thơ trở thành nơi ông bày tỏ bao nỗi niềm giấu kín cùng cảm xúc mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp xứ Huế và tình đời tình người sâu kín.

Cảnh sắc thiên nhiên nơi thôn Vĩ Dạ được gợi mở ra tươi mới tràn ngập sức sống:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Mở đầu là câu hỏi: "sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vang lên như lời trách thầm, lời nhắn gửi nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Câu hỏi là của ai? Mà vừa có nhiều cung bậc như vậy. Không phải là của Hoàng Cúc, hay một cô gái nào khác ở Thôn Vĩ vậy thì của ai? Của Hàn Mạc Tử, dường như tác giả tự phân thân để chất vấn chính mình. Cũng là một lời xác nhận đã lâu rồi không về thôn Vĩ, và không biết đến bao giờ, đến khi nào mới có thể trở về để thăm lại nơi đầy gắn bó những dấu yêu kỉ niệm. Không những vậy, câu hỏi còn là cái cớ rất đáng yêu, nhẹ bẫng lại xót xa để gợi về kỉ niệm thôn Vĩ và bức tranh thôn Vĩ mở ra tự nhiên ở ba câu thơ tiếp với nắng hàng cau, vườn cây và cành lá trúc thân thuộc. "nắng hàng cau" là nắng đầu tiên của buổi sáng sớm, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử.

Buổi sớm với những hàng cau cao và thẳng vươn cao đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm bừng tỉnh, sương còn chưa tan hết, nắng mới đã bừng lên tràn ngập trên những hàng cây mới mẻ thanh tân. Trong những câu thơ không chỉ miêu ta ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng điệp từ "nắng" vẽ ra luồng ánh sáng của thời gian , nắng lan trên đầu vạn vật từ trên cao xuống thấp, tràn cả khu vườn. Khoác lên tấm áo mới tươi tắn thanh tân. Vườn thôn Vĩ ngời lên sắc xanh "xanh mướt như ngọc" thân thuộc. "Mướt" manh sức gợi cảm cao, không chỉ diễn tả màu sắc mà còn cả sức sống. Tính từ độc đáo kết hợp sử dụng biện pháp so sánh "xanh như ngọc" khiến khu vườn biếc lên một màu ngọc lung linh. Vừa có màu sắc xanh tươi vừa lấp lánh ánh sáng khi bóng nắng trên cao chiếu rọi tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp.

Như vậy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho người đọc những giá trị sâu sắc. Bên cạnh đó, bài thơ cho ra thấy khi con người bị đẩy đến tận cùng của khổ đau và bế tắc nhưng vẫn hướng đến cuộc đời sự khao khát sẻ chia.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 8

Chế Lan Viên từng nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Đến với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Từ đã cho người đọc thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi thôn Vĩ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

“Đây thôn Vĩ Dạ” cho ta gặp một cái tôi trữ tình đau thương và khao khát. Câu thơ mở đầu phảng phất chút riêng tư của tác giả:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu thơ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" của Hàn Mặc Tử mang nhiều sắc thái, vừa là câu hỏi tu từ vừa như lời trách nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Nó cũng là lời tự trách, tự hỏi của nhà thơ về ước ao thầm kín được trở về thôn Vĩ sau những năm tháng xa cách. Câu thơ bảy chữ, với bảy thanh bằng liên tiếp, tạo âm điệu dịu nhẹ, tha thiết và bâng khuâng, phản ánh sự nuối tiếc và nỗi lòng của tác giả.

Đối với Hàn Mặc Tử, câu thơ vừa ngọt ngào vừa gợi mở vừa trách móc ấy đã làm hồi sinh, bừng dậy trong nhà thơ bao kỷ niệm về một Vĩ Dạ mộng và thơ. Ngay sau đó là thế giới sự sống hiện ra qua cảnh và người thôn Vĩ, qua hoài niệm của thi nhân ở bao thơ tiếp:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hình ảnh "Nắng hàng cau nắng mới lên" gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày vì thế nắng hàng cau là nắng thanh tân, tinh khôi. Ánh nắng chiếu vào thân cau đổ bóng xuống khu vườn, thân cau thẳng lại chia thành nhiều đốt điều đặn bởi vậy mà cau như cây thước của thiên nhiên được dựng sẵn trong vườn để đo mức nắng. Loài cây ấy lại chiếu rọi bởi một một thứ ánh nắng đặc biệt, nắng mới lên, nắng đầu tiên của một ngày ấm áp.

Khổ thơ là một bức tranh quê rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hòa vẻ đẹp cao quý, cao sang của đối tượng. Qua đó thấy được niềm thiết tha với cuộc đời trần thế của chủ thể trữ tình.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 9

Nhà thơ Hàn Mặc Tử được biết đến với sức sáng tạo nhất trong số các nhà Thơ mới. Ông có một cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch. Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn và tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ, thể hiện một hồn thơ tha thiết nhưng tuyệt vọng. Khổ thơ đầu tiên của bài mang đến một bức tranh thiên nhiên đầy vẻ đẹp.

Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được gợi ra thật đặc biệt:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Khi đọc câu thơ đầu tiên, độc giả sẽ đặt ra vấn đề: Câu hỏi đó là lời mời mọc, lời trách móc hay đó có phải là lời của cô gái? Đây như là lời của chính tác giả, thể hiện niềm khao khát, lời thúc giục niềm khao khát được về thôn Vĩ. Vì tác giả lâm bệnh nặng mà lại quá khát khao nên bằng tâm tưởng, tác giả đã về thôn Vĩ. Thôn Vĩ hiện ra trong trí nhớ của nhà thơ, cả một thế giới sống đã ùa về, gợi ra trong lòng người bao cảm xúc.

Câu thơ thứ hai, từ “nhìn” là cái cảm nhận được bằng thị giác, rất chân thực. Dường như nhà thơ đang có mặt tại thời điểm nói để chiêm ngưỡng và miêu tả. Tác giả nhận ra sự di chuyển của nắng. Điệp từ “nắng” thể hiện nắng như len lỏi vào bức tranh, tràn trề trong bức tranh. “Nắng mới” là nắng buổi sớm, trong trẻo, tinh khôi, như mang đến luồng sinh khí, mang đến sự sống cho con người. Hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, trong khu vườn là loại cây đón ánh nắng đầu tiên. Tác giả mở ra một bức tranh khỏe khoắn và tạo cho khu vườn có chiều sâu.

Câu thơ thứ ba góp phần mở ra bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp. Đại từ “ai” là từ phiếm chỉ, gợi chút mặc cảm của nhà thơ. Từ “mướt” gợi cảm giác xanh non, láng mượt, lấp lánh, có sự phản quang, có ánh sáng và có sức sống. Từ “quá” như thể hiện một lời reo vui vì ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên. Biện pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc” thể hiện màu xanh phát ra ánh sáng, tự phát ra ánh sáng của sự sống, cảnh vật như phát ra ánh sáng nội sinh, sức mạnh tràn trề của khu vườn. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp, trong sáng và tràn đầy sức sống.

Câu thơ cuối cùng nêu lên vẻ đẹp của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” để chỉ người có khuôn mặt phúc hậu. Ý thơ gợi ra niềm khao khát của tác giả mong được hòa hợp, giao cảm, được trở về với cuộc sống. Hình ảnh “lá trúc che ngang” khiến khuôn mặt chỉ hiện ra có một nửa, như gợi sự mặc cảm của tác giả. Dù hiểu theo ý thơ như thế nào thì tình cảm của nhà thơ với con người xứ Huế không bao giờ thay đổi.

Cảm nhận khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Đó là tiếng lòng yêu đời tha thiết, dù đang có sự đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, nhưng tác giả vẫn dành cho đời cái nhìn đầy tin yêu, phải là một con người yêu đời lắm mới mơ tưởng về thôn Vĩ đẹp như vậy. Càng xót xa về số phận của Hàn Mặc Tử bao nhiêu, ta càng trân trọng niềm yêu đời quý giá của tác giả bấy nhiêu.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 10

Trong nền thi ca hiện đại Việt Nam, Hàn Mặc Tử được xem là một hiện tượng độc đáo – một hồn thơ tài hoa nhưng đầy bi kịch. Cuộc đời ông ngắn ngủi, mang nỗi đau thể xác bởi căn bệnh hiểm nghèo và những khắc khoải tinh thần trong tình yêu, cuộc sống. Tuy vậy, chính trong hoàn cảnh éo le ấy, Hàn Mặc Tử vẫn làm nên những vần thơ tuyệt đẹp, thể hiện khát vọng sống mãnh liệt, trong đó có bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ như một lời gửi gắm cuối đời, một khúc hoài niệm sâu sắc. Và khổ thơ đầu tiên chính là cánh cửa mở ra khung cảnh đầy thơ mộng và tình cảm thiết tha của một hồn thơ cô đơn, đau đáu hướng về miền đất yêu dấu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu thơ đầu tiên mở ra bằng một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi ấy như một lời trách nhẹ, một lời mời thân thương hay cũng có thể là lời tự vấn từ trong sâu thẳm lòng nhà thơ. Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi ấy vẫn chất chứa một nỗi nhớ nhung, một sự mong mỏi khôn nguôi được trở về chốn cũ. Thôn Vĩ không chỉ là một địa danh mà còn là biểu tượng của một miền ký ức tươi đẹp, nơi gắn với hình ảnh người con gái Huế dịu dàng mà Hàn Mặc Tử từng thương thầm.

Câu thơ tiếp theo “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” gợi ra một khung cảnh buổi sáng bình yên, thanh khiết. Ánh nắng buổi sớm chiếu lên hàng cau – loài cây quen thuộc của miền Trung, cao vút, thẳng tắp – như vẽ nên một bức tranh giàu sức sống. Từ “nắng mới” không chỉ là ánh sáng đầu ngày, mà còn là biểu tượng cho niềm hy vọng, cho một khởi đầu mới. Trong ánh nhìn của thi sĩ, cảnh vật trở nên trong trẻo, nhẹ nhàng như ánh sáng nơi thiên đường – phản ánh một tâm hồn yêu đời và tha thiết với sự sống dù đang trong bệnh tật.

Bức tranh thiên nhiên ấy tiếp tục được tô điểm qua câu thơ: “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”. Một cảm thán đầy rung động trước vẻ đẹp xanh tươi, mướt mát của khu vườn thôn Vĩ. Từ “mướt” gợi độ mượt mà, tràn đầy sức sống. Còn “xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh rất đẹp, biểu hiện cái nhìn trân trọng và ngưỡng mộ. Cảnh sắc thiên nhiên trong trí tưởng tượng của thi nhân không còn là thực tại mà đã trở thành một thế giới lung linh, huyền ảo – một miền mộng đẹp vượt lên trên sự khắc nghiệt của thực tại.

Điểm nhấn đặc biệt trong khổ thơ là hình ảnh con người thấp thoáng sau làn lá: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Ở đây, khuôn mặt “chữ điền” là ẩn dụ cho vẻ đẹp truyền thống của người đàn ông phúc hậu, điềm đạm. Nhưng điều đáng nói là khuôn mặt ấy bị “lá trúc che ngang” – tạo nên sự e ấp, xa cách, vừa gần gũi vừa như không thể chạm tới. Thiên nhiên và con người hòa quyện, nhưng lại bị chia cách bởi một lớp màn mỏng – như chính tâm trạng của nhà thơ lúc này: khao khát được gần, nhưng luôn bị đẩy xa. Cảnh và người tuy đẹp nhưng lại đượm buồn, thấm đẫm nỗi cô đơn.

Bằng những hình ảnh gần gũi mà đầy tính thẩm mỹ, Hàn Mặc Tử không chỉ tái hiện một bức tranh thôn quê xứ Huế mà còn truyền vào đó những cảm xúc rất đỗi nhân văn. Thiên nhiên trong khổ thơ đầu không chỉ là cảnh vật mà còn là sự phản chiếu của tâm hồn thi sĩ: một tâm hồn nhạy cảm, yêu đời, khát khao được sống, được trở về với những gì thanh bình, gần gũi nhất. Thật kỳ lạ, trong những năm tháng cuối đời, khi phải sống cách ly với xã hội, đối mặt với cái chết, Hàn Mặc Tử vẫn viết nên những câu thơ trong sáng, tinh khiết đến lạ lùng.

Khổ thơ đầu mang đặc trưng rõ nét của thơ Hàn Mặc Tử: giàu cảm xúc, sử dụng nhiều hình ảnh đẹp và giàu sức gợi. Từ ngữ tinh tế, ngôn ngữ mềm mại và lối biểu đạt đầy nhạc tính giúp khơi dậy trong người đọc một thế giới vừa thực vừa mơ. Không gian thôn Vĩ hiện lên không chỉ bằng mắt mà bằng cả nỗi nhớ, bằng trái tim của một người đang hướng về nơi xa xăm.

Nếu đặt khổ thơ trong mạch cảm xúc toàn bài, ta thấy rõ đây là phần mở đầu cho dòng hoài niệm miên man của tác giả. Nó là bức tranh sáng rõ nhất, giàu sức sống nhất trước khi chuyển sang những khổ thơ sau – nơi cảm xúc dần chìm vào mộng mị, xa vắng và bi ai. Chính vì vậy, khổ thơ đầu như một mảnh nắng cuối cùng chiếu rọi vào đời thi nhân – đẹp đẽ, rực rỡ nhưng cũng đầy tiếc nuối.

Qua khổ thơ đầu tiên của bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta cảm nhận được một vẻ đẹp lặng lẽ nhưng đầy sức sống của thiên nhiên, con người xứ Huế. Đồng thời, ẩn sau đó là một trái tim yêu tha thiết, một tâm hồn cô đơn nhưng không ngừng khao khát được hòa nhập, được sống hết mình. Khổ thơ ấy không chỉ đẹp bởi hình ảnh mà còn đẹp bởi cảm xúc – một vẻ đẹp khiến người đọc dù bao năm tháng trôi qua vẫn không khỏi bồi hồi xúc động.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 11

Hàn Mặc Tử – người thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh – là một ngôi sao băng lấp lánh trên bầu trời thơ ca Việt Nam hiện đại. Tài năng của ông được khẳng định qua những vần thơ đầy sáng tạo, mới mẻ về hình ảnh, giọng điệu và cảm xúc. Trong đó, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm đặc biệt, không chỉ bởi vẻ đẹp trong trẻo của thiên nhiên xứ Huế mà còn vì sự lay động từ nỗi niềm của một trái tim cô độc, tha thiết muốn vươn ra khỏi bóng tối của bệnh tật để trở về nơi có ánh sáng, có người thân yêu. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ chính là nơi khởi phát cảm xúc ấy, nơi mà nỗi cô đơn của thi nhân được giấu trong cảnh sắc và ánh sáng bình minh:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu hỏi đầu tiên: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vang lên như một lời trách nhẹ nhàng, thân thương. Nhưng nếu đi sâu hơn, đó còn là một lời tự vấn của chính Hàn Mặc Tử dành cho mình – tại sao không trở về, tại sao không tìm lại nơi từng có kỷ niệm và bóng dáng thân thương? Câu hỏi không nhằm tìm câu trả lời, mà chỉ để gợi lên nỗi trăn trở, nỗi khắc khoải trong lòng người đang bị chia cắt bởi hoàn cảnh khắc nghiệt. “Không về” không chỉ là khoảng cách địa lý, mà còn là ranh giới giữa thực tại và khát vọng, giữa cuộc sống và cái chết.

Khung cảnh thôn Vĩ hiện lên trong mắt thi sĩ thật dịu dàng, tươi sáng: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng buổi sớm len qua hàng cau cao vút, vàng óng – một hình ảnh biểu tượng cho sự sống, cho hy vọng. Nắng ở đây không chói chang mà “mới lên”, vừa đủ nhẹ nhàng để đánh thức ký ức, làm dịu trái tim đang mỏi mệt. Trong khung cảnh ấy, ta thấy một Hàn Mặc Tử rất khác – không mộng mị, không dữ dội, mà ngập tràn yêu thương và khát vọng sống.

Tiếp nối là hình ảnh “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” – một câu thơ đầy xúc cảm thẩm mỹ. Cảnh vườn không chỉ đơn thuần là không gian xanh mát mà còn mang nét đẹp của sự quý giá, trong lành. Màu xanh “như ngọc” cho thấy sự trân quý của nhà thơ với nơi chốn ấy. Câu hỏi “vườn ai” lại một lần nữa gợi sự xa cách: dù yêu tha thiết, dù hình dung rõ ràng, nhưng tác giả vẫn không dám khẳng định – như một sự rụt rè, ngại ngùng trước miền ký ức xưa.

Câu thơ cuối “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là điểm nhấn cảm xúc, tạo chiều sâu cho cả khổ thơ. Lá trúc mảnh mai, mềm mại, tạo nên sự duyên dáng cho cảnh vật, đồng thời cũng che khuất khuôn mặt chữ điền – biểu tượng cho người con trai hiền hậu, nho nhã. Việc “che ngang” gợi cảm giác mờ ảo, xa cách, như thể con người ấy đang dần mờ trong ký ức, hoặc như thể tình cảm đẹp đẽ kia giờ chỉ còn là quá khứ. Hàn Mặc Tử khao khát được gần, được thấy rõ, nhưng thực tại đau đớn lại khiến mọi thứ trở nên xa vời và bị che khuất.

Khổ thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả cảnh và biểu cảm. Thiên nhiên được miêu tả tinh tế, trong sáng, nhưng đồng thời cũng phản ánh nỗi lòng của người viết: khao khát, cô đơn và đau đáu. Thôn Vĩ không chỉ là nơi chốn, mà còn là biểu tượng cho một miền ký ức đẹp đẽ, nơi có ánh sáng, có tình yêu, có cuộc sống bình thường mà Hàn Mặc Tử khao khát được trở về – nhưng không thể. Sự cô đơn không được nói thẳng, nhưng len lỏi trong từng hình ảnh, từng khoảng cách giữa người và cảnh.

Hơn cả một bức tranh quê đẹp đẽ, khổ thơ đầu “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng vọng tâm hồn của một con người đang ở ranh giới sinh – tử, vẫn luôn hướng về sự sống với tất cả tình yêu và khát vọng. Nó cho thấy một Hàn Mặc Tử rất người – không chỉ là thi sĩ mộng mị mà còn là con người bằng xương bằng thịt, biết yêu thương, tiếc nuối và mong mỏi được trở về.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 12

Huế từ lâu đã là nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca, nhạc họa bởi vẻ đẹp vừa dịu dàng, vừa sâu lắng, nhuốm màu trầm mặc. Và với Hàn Mặc Tử, Huế không chỉ là nơi có phong cảnh nên thơ, mà còn là nơi lưu giữ những ký ức đẹp đẽ, gắn với hình ảnh người con gái mà ông từng thầm thương. Chính vì thế, trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, khổ thơ đầu mang dáng dấp của một bức tranh Huế – một Huế trong nắng, trong sương, trong cái nhìn đầy luyến tiếc và yêu thương:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Khổ thơ mở đầu bằng một câu hỏi đầy gợi mở: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” – như một tiếng gọi tha thiết vang lên từ lòng xứ Huế. Câu hỏi ấy có thể là lời mời của người con gái gửi đến thi nhân, nhưng cũng có thể là lời độc thoại của chính nhà thơ, đang hoài niệm về một nơi chốn thân thương. Câu hỏi ấy mở ra không gian và thời gian của ký ức, khơi gợi một Huế đậm chất thơ, đậm nét tình.

Câu thơ tiếp theo: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” gợi ra cảnh sắc buổi sáng ở thôn Vĩ. Ánh nắng đầu ngày dịu nhẹ chiếu qua hàng cau cao, thẳng – loài cây đặc trưng của xứ Huế. Cảnh vật hiện ra nhẹ nhàng, thanh khiết như chính tâm hồn người Huế – dịu dàng, nồng hậu. Cách lặp từ “nắng” cùng việc dùng hình ảnh “nắng mới lên” tạo nên nhịp điệu thơ trong trẻo, nhẹ nhàng, như một bản nhạc sớm mai vang lên giữa không gian xanh mát.

Cảnh vật ấy tiếp tục được mở rộng trong câu thơ “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” – vừa gần gũi, vừa lung linh. Huế hiện ra qua màu xanh mượt mà, đầy sức sống, và đặc biệt là ánh lên vẻ quý giá như “ngọc”. Thiên nhiên ở đây không đơn thuần là thực cảnh, mà còn là tâm cảnh – là sự phản chiếu của tình cảm, của ký ức và cả sự tôn vinh những gì đã qua.

Nếu ba câu đầu là bức tranh thiên nhiên, thì câu cuối “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” lại đưa con người vào không gian ấy một cách khéo léo. Lá trúc – biểu tượng cho sự thanh mảnh, mềm mại – làm nền cho khuôn mặt “chữ điền” – khuôn mặt của người con trai hiền hậu, đoan chính. Ở đây, Hàn Mặc Tử không miêu tả cụ thể, mà chỉ gợi mở – để hình ảnh con người hiện ra vừa rõ vừa mờ, vừa gần vừa xa. Có lẽ đó là điều làm nên chất Huế: nhẹ nhàng, e ấp, và luôn đọng lại dư âm.

Nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử trong khổ thơ này là sự kết hợp giữa tả và gợi, giữa hình ảnh cụ thể và cảm xúc trừu tượng. Thôn Vĩ hiện ra không chỉ bằng mắt nhìn, mà bằng cả trái tim – một không gian mang màu sắc lãng mạn, tinh khiết. Chính vì vậy, Huế trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ đẹp mà còn rất “tình” – đọng lại trong lòng người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng, khó quên.

Qua khổ thơ đầu bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta không chỉ thấy một bức tranh xứ Huế thơ mộng, mà còn cảm nhận được tâm hồn yêu đời, yêu người tha thiết của nhà thơ trong những ngày cuối đời. Thôn Vĩ không chỉ là nơi chốn, mà là miền hồn quê hương, là khúc nhạc dịu êm trong một bản tình ca buồn của Hàn Mặc Tử.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 13

Thơ Hàn Mặc Tử là sự kết tinh giữa vẻ đẹp trần thế và cõi mộng siêu thực, giữa cái thực đau đớn và cái mộng mơ huyền ảo. Trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được nhắc đến như một đỉnh cao của cảm xúc, của thi ảnh và của giọng điệu. Đặc biệt, khổ thơ mở đầu chính là nơi tâm hồn thi sĩ được nâng niu trong giấc mộng thanh khiết về xứ Huế – một không gian ông từng yêu mến, từng gửi lòng mình nơi đó. Bốn câu thơ là một bức tranh nhẹ nhàng, vừa thực vừa mơ, vừa buồn vừa đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ngay từ câu thơ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được tiếng gọi nhẹ nhàng mà đầy tha thiết: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi mở ra không gian đối thoại tưởng như đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó biết bao cảm xúc. Có người cho rằng đây là lời nhắn nhủ của một người con gái xứ Huế gửi đến Hàn Mặc Tử – người thi sĩ đang mắc bệnh hiểm nghèo, bị cô lập với thế giới bên ngoài. Nhưng cũng có thể, đây là lời tự hỏi của chính thi nhân trong những lúc nằm giữa bốn bức tường bệnh tật, khắc khoải nhớ về một nơi chốn xưa – nơi có ánh sáng, có sự sống, và có kỷ niệm của một tình yêu đã xa.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” – một hình ảnh mộc mạc, giản dị nhưng lại đầy tính biểu tượng. Ánh nắng mới lên trên hàng cau gợi nên một buổi sớm mai thanh bình, ấm áp. Cau là loài cây cao vút, thẳng tắp, thường được trồng trước sân nhà, mang tính truyền thống và biểu tượng cho sự trong sạch, thẳng ngay. Còn “nắng mới” là thứ ánh sáng tinh khôi nhất trong ngày, vừa lên đã sáng, vừa ấm đã dịu. Ẩn sau hình ảnh ấy là khao khát được tắm mình trong ánh sáng cuộc đời, được trở về với thiên nhiên và con người sau những ngày sống trong cô đơn, lạnh lẽo.

Câu thơ “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” là một sự thăng hoa của cảm xúc. Nhà thơ không chỉ thấy màu xanh, mà còn cảm được sự “mướt” – một cảm nhận bằng thị giác và xúc giác. Màu xanh “như ngọc” không chỉ quý giá mà còn gợi sự thanh cao, tinh khiết. Cái nhìn ấy cho thấy một tâm hồn đang tha thiết sống, đang khát khao vươn về cái đẹp, về sự sống tươi mới, tràn đầy. Thiên nhiên nơi thôn Vĩ trong mắt thi nhân không phải là thiên nhiên bình thường, mà là miền ký ức đã được lý tưởng hóa, nâng lên thành giấc mộng lung linh.

Câu thơ cuối cùng “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” lại mang đến một tầng nghĩa sâu sắc về con người. Trong không gian mộng mơ ấy, hiện lên bóng dáng con người – không rõ nét, không cụ thể, mà ẩn hiện sau lớp lá trúc mong manh. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt vuông vức, hiền hậu – gợi đến nét đẹp của người con trai miền Trung cần cù, tử tế. Tuy nhiên, hình ảnh ấy lại bị “che ngang”, như thể con người và cảnh vật trong ký ức đang dần lùi xa, mờ nhòe, không còn rõ ràng nữa. Điều ấy càng khiến nỗi cô đơn, nỗi luyến tiếc trong thơ Hàn Mặc Tử trở nên da diết hơn.

Toàn bộ khổ thơ đầu không chỉ vẽ ra một bức tranh Huế nên thơ mà còn là một giấc mộng đẹp của thi nhân. Trong cái nhìn của một người đang đối mặt với bệnh tật và cái chết, Huế hiện lên như thiên đường trong mơ – nơi mọi thứ đều lung linh, trong trẻo. Nhưng giấc mơ ấy cũng ẩn chứa nỗi đau, bởi đó là nơi không thể chạm đến, là quá khứ không thể quay lại. Chính điều đó khiến khổ thơ đầu trở nên đẹp nhưng buồn, nhẹ nhàng mà đau đáu.

Qua bốn câu thơ ngắn ngủi, Hàn Mặc Tử không chỉ vẽ nên vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế, mà còn gửi gắm vào đó những khát vọng sống, yêu thương và được trở về. Dù chỉ là mộng tưởng, nhưng đó lại là nơi trái tim ông hướng về – nơi có ánh nắng dịu dàng, vườn cây xanh mướt, khuôn mặt thân thương… Tất cả đều là biểu tượng cho cuộc sống mà ông từng khao khát giữa những ngày tháng đen tối nhất của cuộc đời mình.

Phân tích khổ 1 Đây thôn vĩ dạ - mẫu 14

Thơ là tiếng lòng, là sự vang vọng sâu xa của tâm hồn con người trước cảnh vật. Với Hàn Mặc Tử, thơ còn là nơi duy nhất giúp ông vượt qua nỗi cô đơn, sự dằn vặt bởi căn bệnh hiểm nghèo và hoàn cảnh biệt lập. Trong số những thi phẩm để đời của ông, “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn khiến người đọc thổn thức vì sự hòa quyện tuyệt vời giữa cảnh và tình. Đặc biệt, khổ thơ đầu không chỉ dựng lên một bức tranh tuyệt đẹp về xứ Huế mà còn là tiếng thở dài khắc khoải của người thi sĩ bị tước đi quyền được sống trọn vẹn:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi – vừa nhẹ nhàng, vừa xoáy sâu vào lòng người đọc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi không nhằm để đòi câu trả lời, mà như một sự trách móc dịu dàng, pha chút buồn, chút tiếc nuối. Thôn Vĩ không chỉ là một địa danh cụ thể, mà còn là biểu tượng cho nơi chốn thân thương, là không gian của những ký ức tình yêu, là miền quê yên bình mà thi nhân khao khát được quay về. Câu thơ ấy mở ra một nỗi nhớ – nhớ quê, nhớ người, nhớ những điều đã xa…

Khung cảnh tiếp theo hiện ra trong vẻ đẹp tinh khôi của buổi sáng: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.” Hàng cau là hình ảnh quen thuộc trong vườn nhà miền Trung, cao thẳng và thanh tú. Ánh nắng sớm rọi xuống hàng cau như một luồng sinh khí, như ánh mắt chan chứa yêu thương. Từ “nắng mới” gợi cảm giác trong trẻo, dịu dàng – một thứ ánh sáng không gay gắt mà ngập tràn hy vọng. Trong mắt thi nhân, thôn Vĩ không chỉ đẹp mà còn sống động, tinh khôi – khác xa với thế giới tăm tối ông đang phải chịu đựng.

Hình ảnh “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” là một câu thơ đầy tính tạo hình và giàu xúc cảm. Màu xanh “mướt” là màu của sự sống, của tươi tắn, của no đủ. Sự ví von “xanh như ngọc” khiến cảnh vườn trở nên lung linh, quý giá. Câu thơ như một tiếng xuýt xoa, thán phục, thể hiện tình yêu sâu nặng với thiên nhiên quê hương. Nhưng trong cách dùng từ “vườn ai”, ta cũng thấy được sự xa cách, sự ngập ngừng – có thể là sự e dè của một người đã rời xa thôn Vĩ, hoặc là sự tiếc nuối của một tình cảm không trọn vẹn.

Câu thơ cuối “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” lại đưa con người vào không gian thơ. Khuôn mặt “chữ điền” là gợi hình ảnh của người đàn ông hiền lành, chất phác, đậm chất Huế. Lá trúc mềm mại, thanh mảnh, tạo nên sự e ấp, nhẹ nhàng. Nhưng chính cái “che ngang” ấy lại khiến con người trở nên xa vời, không rõ nét – như bóng dáng của người xưa chỉ còn trong mơ. Thiên nhiên và con người cùng hiện diện trong một không gian vừa thực vừa ảo, vừa gần vừa xa.

Toàn bộ khổ thơ đầu là một không gian ký ức và mộng tưởng, nơi mà thi nhân gửi gắm tâm hồn mình. Đó là một thế giới của ánh sáng, màu xanh, sự sống và tình người – tất cả trái ngược với thực tại u tối, khắc nghiệt mà ông đang trải qua. Thôn Vĩ, vì thế, không chỉ là nơi để về, mà còn là nơi để mơ – mơ về một ngày được sống trọn vẹn, được yêu, được thấy ánh nắng bình minh.

Khổ thơ đầu bài “Đây thôn Vĩ Dạ” là một minh chứng cho khả năng thi vị hóa hiện thực của Hàn Mặc Tử. Dù đang ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, ông vẫn không ngừng vươn tới cái đẹp, cái sáng trong. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn đẹp bởi tình cảm, bởi những rung động chân thành của một trái tim yêu đời đến phút cuối.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học