Kịch bản chèo/tuồng là gì (chi tiết nhất)

Bài viết Kịch bản chèo/tuồng là gì chi tiết nhất, đầy đủ khái niệm, đặc điểm, cách đọc hiểu & bài tập có đáp án chi tiết giúp bạn nắm vững kiến thức trọng tâm về Kịch bản chèo/tuồng.

Kịch bản chèo/tuồng là gì (chi tiết nhất)

Quảng cáo
Cài đặt app vietjack

1. Khái niệm kịch bản chèo/tuồng

* Chèo

- Chèo cổ (chèo sân đình) là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hòa nhiều chất liệu: dân ca, múa dân gian và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Chèo được xem là một hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng (không có người kể chuyện như trong truyện). Cũng như kịch nói chung, kịch bản chèo tập trung thể hiện hành động, dẫn dắt xung đột qua ngôn ngữ của nhân vật.

- Kịch bản chèo là văn bản văn học, được tiếp nhận thông qua hình thức đọc, bao gồm lời thoại của nhân vật và một số chỉ dẫn sân khấu căn bản (ví dụ: “hát sắp”, “nói lệch”,…) 

- Sân khấu chèo là sự hiện thực hóa kịch bản chèo thông qua hoạt động trình diễn, được tiếp nhận bằng hình thức xem và nghe.

* Tuồng

- Tuồng là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hòa điệu nói lối, các điệu hát của tuồng và một số chất liệu nghệ thuật dân gian khác. Tuồng thịnh hành vào thế kỉ XIX, vùng Nam Trung Bộ (tiêu biểu là Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Định). Được xem là một hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, kịch bản tuồng tập trung thể hiện hành động, dẫn dắt xung đột qua ngôn ngữ của nhân vật. Tùy theo đề tài, nội dung, phạm vi lưu diễn, quy cách dàn dựng, tuồng được phân thành hai loại chính: tuồng pho (tuồng thầy) và tuồng đồ.

- Tuồng đồ thiên về hài hước châm biếm, ngôn ngữ mộc mạc, bình dân; lối diễn tự do, ít khoa trương cách điệu, gần gũi với cuộc sống thường ngày và gần với kịch nói.

Quảng cáo

2. Đặc điểm của kịch bản chèo/tuồng

* Chèo

- Đề tài: Chèo cổ thường xoay quanh vấn đề giáo dục cách sống, cách ứng xử giữa người với người theo quan điểm đạo lí dân gian hoặc theo tư tưởng Nho giáo.

- Tích truyện là chất liệu xây dựng nên cốt truyện của chèo. Thường là các nhân vật, hành động, sự việc có sẵn trong kho tàng truyện cổ dân gian hoặc trong dã sử được khai thác và tổ chức lại theo nguyên tắc kịch hay xung đột. Từ các tích truyện này, các tác giả kịch bản – thường là giới nho sĩ – viết thành kịch bản chèo để truyền bá những tín điều của tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, qua quá trình ứng tác, biểu diễn, nhiều chủ đề truyền thống bị làm mờ đi, nhường chỗ cho những khát vọng nhân bản hơn, vượt ra ngoài giáo lí Nho học truyền thống.

- Nhân vật: Các loạt hình nhân vật phổ biến của chèo bao gồm kép, đào, hề, mụ, lão. Kép (nam chính) thường là các sĩ tử chân chính, hiếu học; đào (nữ chính) bao hồm đào thương (những người phụ nữ trung trinh tiết liệt), đào lệch hay còn gọi là đào lẳng (những người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến), đào pha (trung gian giữa hai loại vai đào thương và đào lệch); hề (nhân vật hài hước, gây cười); mụ (nhân vật nữ lớn tuổi); lão (nhân vật nam lớn tuổi). Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ với tình cách không thay đổi.

- Cấu trúc: Cũng như các loại hình sân khấu khác, cấu trúc của một vở chèo bao gồm nhiều màn và cảnh, mỗi màn và cảnh thường xảy ra trong một khung thời gian và không gian khác nhau. Mỗi cảnh đóng vai trò như một bộ phận kiến tạo nên các giai đoạn của cốt truyện: khai mở, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút.

- Lời thoại: Trong chèo không có lời người kể chuyện, chỉ có các lời thoại. Lời thoại đảm nhiệm mọi vai trò: dẫn sắt xung đột, diễn tả hành động, khắc họa nhân vật, bối cảnh (không gian, thời gian), đồng thời gián tiếp thể hiện tình cảm của tác giả dân gian.

Quảng cáo

- Lời thoạt trong chèo cổ bao gồm lời thoại của nhân vật và tiếng đế. Lời thoại của nhân vật thường có các hình thức: đối thoại (lời các nhân vật nói với nhau), độc thoại (lời nhân vật nói với chính mình), bàng thoại (lời nhân vật nói với khán giải). Tiếng đế là lời đại diện khán giả chen vào, đệm vào lời của nhân vật dưới dạng câu hỏi hoặc bình luận ngắn, chủ yếu để kích thích nhân vật bộc lộ khi diễn.

- Về hình thức, lời thoại của nhân vật trong chèo bao gồm lời nói, lời hát-nói (tức nói theo âm điệu) và lời hát (theo các làn điệu dân ca).

* Tuồng

- Đề tài lấy từ đời sống thôn dã, hoặc tích truyện có sẵn, dựng thành những câu chuyện, tình huống hài hước, những nhân vật phản diện hiện thân cho những thói hư tật xấu của một số hạng người trong xã hội phong kiến tiểu nông. Tuồng đồ, do vật, thiên về trào lộng, phê phán xã hội trên lập trường đạo đức của người bình dân, khác với tuồng pho thường lấy đề tài từ sách, truyện Trung Quốc với cảm hứng anh hùng, đề cao lí tưởng trung quân theo lập trường Nho giáo.

- Tích truyện: Các vở tuồng đồ thường được xây dựng dựa trên một câu chuyện hay một tình huống, hành động, sự việc nào đó, thường có sẵn trong kho tàng truyện dân gian, gọi là “tích truyện”. Từ tích truyện này, các tác giả kịch bản viết thành kịch bản tồng (dưới dạng truyền miệng). Khi trình diễn, nghệ nhân trong các gánh tuồng có thể cải biên ít nhiều cho phù hợp với điều kiện diễn xuất, đối tượng người xem.

- Nhân vật khác với tuồng pho, các loại hình nhân vật phổ biến trong tuồng đồ gần gũ với chèo cổ, cũng bao gồm các vai: kép, đào, mụ, lão…Nhân vật tiêu biểu cho các vai tuồng này thường mang tính ước lệ và tính cách không thay đổi, thể hiện chủ yếu qua lời thoại và hành động của mình. Khi xuất hiện lần đầu, các nhân vật chính thường có lời xưng danh (tự giới thiệu danh tính, nghề nghiệp, vị trí xã hội,…) Tính cách, đặc điểm của nhân vật trong tuồng, một phần được biểu đạt qua cách hóa trang, nhất là qua các nét vẽ và màu sắc trên khuôn mặt diễn viên.

Quảng cáo

- Lời thoại trong tuồng cũng có vai trò, đặc điểm như lời thoại trong chèo đã nói ở phần trước. Lời thoại của nhân vật tuồng, chủ yếu là đối thoại có xen độc thoại hay bàng thoại, dưới hình thức nói, ngâm hoặc hát và chủ yếu là văn vần.

- Phương thức lưu truyền chủ yếu là truyền miệng. Tuồng đồ thường không được ghi chép thành quyển như tuồng pho. Do vậy, mỗi gánh hát tuồng có thể lưu giữ một vốn kịch bản – vở diễn riêng. Hơn nữa, cùng một tích tuồng, nghệ nhân trong các gánh tuồng có thể tạo dựng các lớp tuồng với các mảng miếng, những điểm nhấn và độ co duỗi của vở diễn theo cách riêng của mình.

3. Ví dụ một số vở chèo/tuồng

-  Chèo: Bài ca giữ nước, Chu Mãi Thần, Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, Trương Viên.

- Tuồng:  Nghêu, Sò, Ốc, Hến; Trường Đồ Nhục; Trương Ngáo;…

4. Cách đọc hiểu một kịch bản chèo/tuồng

- Một số lưu ý khi đọc hiểu phân tích văn bản chèo/tuồng:

+ Văn bản kể lại sự việc gì và diễn biến của sự việc đó như thế nào?

+ Nhân vật chính trong văn bản là ai? Nhân vật được thể hiện qua các chi tiết ngôn ngữ, hành động, tâm trạng,... như thế nào?

+ Văn bản có các chỉ dẫn sân khấu, các hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ,... nào được sử dụng? Các chỉ dẫn, biện pháp,... đó giúp em hình dung ra bối cảnh, hành động, tâm trạng,... của nhân vật ra sao?

+ Vì được lưu truyền theo phương thức truyền miệng nên sẽ xuất hiện nhiều dị bản.

5. Một số bài tập liên quan đến thể loại chèo/tuồng.

5.1. Trắc nghiệm

Câu 1: Chèo là gì?

A. Là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam.

B. Là cách gọi một loại hình nhạc kịch tại Việt Nam.

C. Là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh hiện thực của văn học.

D. Là một thể loại hư cấu đề cập đến bất kỳ diễn ngôn hoặc tác phẩm nào đó.

Đáp án: A

Câu 2: Tuồng là gì?

A. Là thể loại văn học dân gian mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật Tuồng.

B. Là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh hiện thực của văn học.

C. Là loại hình sân khấu cổ truyền Việt Nam

D. Là văn bản được viết để truyền đạt thông tin, kiến thức.

Đáp án: A

Câu 3: Tích truyện trong chèo được khai thác từ đâu?

A. Từ truyền thuyết.

B. Từ thần thoại

C. Từ truyện cổ tích và truyện Nôm

D. Từ ca dao, dân ca

Đáp án: C

Câu 4. Theo nhiều học giả, tuồng xuất phát từ?

A. Văn hóa dân tộc Việt Nam

B. Âm nhạc Việt Nam

C. Ca vũ dân tộc Việt Nam

D. Kịch của Việt Nam

Đáp án: C

Câu 5: Nghệ thuật chèo là nghệ thuật tổng hợp, phối hợp nhuần nhuyễn giữa:

A. Nói, hát, âm nhạc.

B. kịch bản, lời hát, động tác múa và âm nhạc.

C. kịch bản, lời hát, lời nói, múa.

D. lời hát, múa, âm nhạc

Đáp án: B

Câu 6: Phong cách biểu diễn của chèo thường mang tính:

A. Ước lệ

B. Nhân hóa

C. Tượng trưng

D. Cụ thể

Đáp án: B

Câu 7. Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào?

A. Cuối thế kỉ X

B. Chưa xác minh

C. Đầu thế kỉ I

D. Cuối thế kỉ II

Đáp án: B

Câu 8: Lối diễn xuất của tuồng nặng tính?

A. Tính hài

B. Tính buồn

C. Tính lố bịch

D. Tính ước lệ và hình thức

Đáp án: D

Câu 9: Lời thoại đóng vai trò như thế nào trong chèo?

A. Dẫn dắt nhân vật, diễn tả hành động, khắc họa bối cảnh.

B. Kể chuyện, dẫn dắt xung đột, diễn tả hành động, quan điểm, tình cảm.

C. Có vai trò tạo nên tính hấp dẫn của tác phẩm, thể hiện cảm xúc của tác giả.

D. Có vai trò tạo nên xung đột cho tác phẩm, thể hiện quan điểm của tác giả.

Đáp án: B

Câu 10: Viết về đề tài sinh hoạt, lấy tiếng cười để phản ánh hiện thực xã hội, có cốt truyện phong phú, gần gũi với cuộc sống bình dân xưa” thuộc loại tuồng nào?

A. Tuồng cung đình

B. Tuồng cung đình và tuồng hài.

C. Tuồng hài.

D. Tuồng hài và tuồng đồ.

Đáp án: C

5.2. Tự luận

Câu 1: Đọc văn bản sau:

CHA CON TƯƠNG TÀN *

(Trích tuồng “Tam nữ đồ”)

DINH KIM HÙNG

QUÂN: (Dạ... Dạ!) Rất kinh hoàng

Vội bẩm quan.

Nhân đêm nay vừa lúc canh ba

Khắc Minh đã trốn ra khỏi ngục.

KIM HÙNG: Truyền quân nhân gấp rút

Nối đèn đuốc sáng ngoài

Mau đón khắp mọi nơi

Quyết chẳng cho thoát chạy.

(Kim Hùng tiến binh bị ông Tạ xuất kỳ bất ý từ trong bụi nhảy ra đánh phủ đầu. Kim Hùng chỉ còn biết đỡ đòn, nhưng không biết ai đánh).

QUÂN: (Dạ! Dấu thiết giản) (1)

KIM HÙNG: (Dấu thiết giản à! Ai đó? Chỉ có ông già tao có mà thôi)

Hay cha già ỷ sức dọc ngang,

Khiến con trẻ khôn phương chống chế...?

(Mà ta lại sợ gì)

Một hùm dầu mạnh mẽ,

Bẩy cáo khá trở đương,

Truyền chúng tướng thẳng đường,

Chỉ Hồng Sơn vội vã.

(hạ)

CẢNH CĂN CỨ HỒNG SƠN

HOÀNG TỬ: Tác bé thơ trong cảnh lạc loài,

(Nhờ các quan)

Lòng lo liệu chung tay dìu dắt

Cũng vì lũ tôi luan con giặc,

Đành số ng nơi góc núi đầu non,

(Vậy, nhờ các quan) Làm sao cho đã mất lại còn

Lẽ cùng có hết quy rồi thịnh.

QUÂN: Dạ!

Chúng tôi theo lịnh,

Dò xét rõ ràng,

Binh Kim Hùng đóng khắp Hồng Sơn,

Xin Điện hạ sai người cự địch.

TƯ CUNG KHƯƠNG HOÀN:

Cam thay loài phản nghịch,

Còn lung thói bạo tàn.

Dưới trướng xin một lệnh truyền ban,

Ngoài núi để hai tôi ra trận.

KHẮC MINH:

Hàng máu nóng, trẻ toan rửa hận,

Gắng sức tàn, già quyết trừ gian.

Cho lão phu ra chốn chiến trường,

Trừ tặc bối an lòng điện hạ.

LÃO TẠ: (Nay quân về thưa rằng binh thằng Kim Hùng vây Hồng Sơn, các quan xin ra đánh cùng nó, lão nghĩ như việc ấy là).

Trẻ già đều gan dạ,

Mạnh yếu xét sức mình.

Xin cho già vào chốn địch dinh,

Quyết dùng chước giết loài tặc bối.

KHẮC MINH:

(Chẳng hay người liệu kế gì?)

LÃO TẠ: (Lão xuống dò đâu đó xong xuôi, rồi lão sẽ thừa cơ đốt dinh trung gây rối)

Cố sức ngăn giặc trẻ bí đường.

TỰ CUNG, KHƯƠNG HOÀN: (Vậy giết được giặc nhưng ngài làm sao mà sống)

LÃO TẠ: (Sống sao được?)

Trong lửa hồng cha con lão thiêu xương,

(Thời)

HOÀNG TỬ: Nghe mấy lời cặn kẽ,

Xui tấc dạ thương đau.

Để muốn đẩy, nghiệp vững ngôi cao,

Nỡ xui đó, thân tàn cốt rụi?

LÃO TẠ: Bởi vô phúc sanh loài tặc bối,

Phải ra công chuộc tội lão phu.

Miễn đem về nghiệp cũ nghìn thu,

Nào xá kể xương tàn một nắm.

PHƯƠNG CƠ:

Lời trung nghĩa chứa chan dòng máu thắm,

Nỗi hiếu tình đau xót tấm lòng riêng.

Theo nghiêm phụ địch cùng huynh trưởng.

Cho ấu nhi (2) ra chốn trận tiền,

LÃO TẠ:

Nghe lời con rất chướng,

Xui lòng lão chẳng ưng.

(Trông thế mày tưởng tao)

Mãi sống lâu trăm tuổi không chừng,

(Nên chỉ mày)

Học nói bậy đôi điều cho tốt.

(Bẩm Điện hạ! Lão còn lại một chút nầy)

Trái một gốc khác mùi đắng ngọt,

(Nó cũng khá, nên chi lão)

Phải đôi lời gởi chút thơ ngây.

(Như nó lâu nay)

Vì non sông chung đóng góp tay,

(Chớ lão đây)

Dù sống thác quyết toàn tấc dạ,

HOÀNG TỬ:

Sự cực cùng chẳng đã,

Còn chi nữa mà mong.

Một lạy dưa, lòng khó cắt lòng,

Ba chung rót, bước khôn chia bước.

(Xướng): Đành e thân già lo việc nước

LÃO TẠ: (Xướng): Quyết vì nghiệp cả diệt loài gian.

PHƯƠNG CƠ: (Xướng): Tình sâu chia cắt trong giây phút,

MỌI NGƯỜI (Xướng): Già trẻ nhìn nhau lệ chứa chan.

HOÀNG TỬ: (Nam): Lệ chứa chan đôi đàng ly biệt,

Gẫm sự tình chi xiết người than

LÃO TẠ: (Nam): Thà cam liều một thân tàn,

Thịt xương xây đắp giang san muôn đời.

KHẮC MINH, HOÀNG TỬ, TƯ CUNG:

(Nam): Nghìn năm dù vắng bóng người, Khí xây sông núi, tiết đời trăng sao.

PHƯƠNG CƠ: (Nam): Nỗi niềm càng nghĩ càng đau,

Thà rằng tử biệt nỡ nào sinh ly.

HOÀNG TỬ: (Nam): Nhìn nhau đôi giọt lệ đầy,

PHƯƠNG CƠ: (Nam): (Tội lắm cha ôi!)

Tình kia đành đoạn!...

LÃO TẠ: (Nam): (Á thôi) Phút này chia tay

(Hạ)

DINH KIM HÙNG

QUÂN: Có một người già cả đến đây,

Xưng thân phụ đại quan vào viếng.

KIM HÙNG:

Nghe qua câu chuyện,

Thật rất hổ nghi.

Ông nào đã chết đi,

Ông nào còn sống đó?

Cự tuyệt thời cũng khó,

Hỏi han lại sẽ hay.

Truyền với quân bay,

Mời ngay ông nọ.

(Chào ông!)

Cách mặt lâu cũng nhớ, (Té ra!...)

Coi bộ khỏe như thường

(he! Tôi hỏi lâu nay

Ông ở đâu, mau khá tỏ tường,

Rày tới đó, việc gì nói thử?

LÃO TẠ:

Phương Cơ đã bỏ đi mất xứ,

Lão phu nay trơ trọi một thân.

Riêng xét mình quá nỗi cơ bần (3)

Tìm tới cửa, nhờ hơi phú quý.

Mừng ông đặng làm tôi Triệu thị,

Thật trông lên đúng bậc oai quyền.

(Lão đây)

Tác tuy già, sức hãy còn hãng,

Việc sai khiến, lão xin cố gắng

KIM HÙNG:

Nhắc chuyện cũ, càng thêm hổ thẹn,

Nghĩ tình xưa cũng phải phôi pha.

Ông đã đành làm trảo làm nha (4)

Việc cần phải hết lòng hết dạ, (nghe!)

(Hạ hết, lão Tạ ra).

LÃO TẠ:

Gây tội ác, con đà thái quá,

Đoạn nhân tình cha khó nhiêu dụng (Lão bây giờ)

Vẹn niềm ngay vì nước hết lòng,

Nhân đêm vắng ra tay nổi lửa.

(Âu là) (Phóng hỏa)

KIM HÙNG:

Ngọn lửa lên rất dữ,

Thế nước cứu khôn qua.

Cả tiếng kia kìa hỡi cha già.

Mau giúp sức cứu cho con trẻ.

LÃO TẠ: (Như mày) Tày trời đất, tội khôn xiết kể,

(Nói thiệt) Cắt ruột già, tao quyết chẳng tha.

Chói lòng son coi nhẹ thân già,

Mượn ngọn lửa diệt trừ giặc trẻ.

(Cha con đánh nhau, cùng chết trong lửa. Lão Tạ còn cố gượng dậy nhìn lại mặt Kim Hùng và vuốt mắt cho nó).

HẾT

(Trích Tổng tập văn học Việt Nam tập 11, Chủ biên Hoàng Châu Ký, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)

Chú thích:

Tóm tắt vở tuồng: Nguyên vương già yếu, Bà Chánh cung đương có thai. Tên Thái sư Triệu Văn Hoán có âm mưu tiếm ngôi vua. Con trai cả của hắn là Bích Long hùa theo cha, còn con trai thứ là Tư Cung chống lại, bỏ đi tu.

Trên đường tìm đến chùa Trúc Tự, Tư Cung gặp ông già Tạ Ngọc Lân. Hai người hiểu lòng nhau, hẹn cùng nhau giúp nước khi giang sơn biến loạn. Tạ Ngọc Lân vốn là một huân thần nhưng chống đối với Triệu Văn Hoán nên đã từ quan về cày ruộng. Ông có hai con, con gái là Phương Cơ hiếu trung, hết lòng vì đại nghĩa, nhưng thằng con trai lớn là Kim Hùng ngỗ nghịch, hung bạo, phản trắc và bỏ nhà chạy theo tôn phò Triệu Văn Hoán.

Vua băng, Triệu Văn Hoan định tiếm ngôi vì chưa có người kế vị, nhưng lão thần Lý Khắc Minh đã tuyên di chiếu của Nguyên vương, trao quyền cho Chánh cung nhiếp chính. Văn Hoán rất ức, bèn cùng Kim Hùng lập mưu vu oan cho bà Chánh hậu là quan hệ bí mật với một người đàn ông và đồng mưu để người ấy cướp ngôi. Thế là bà Chánh cung bị phế truất và hạ ngục. Văn Hoán tiếm ngôi.

Lý Khắc Minh lập kế lãnh tù Chánh cung về dinh mình để giam và tra hỏi kẻ đồng mưu rồi sẽ giết sau. Đưa được bà nầy về dinh rồi, nhưng Khắc Minh lo nghĩ không biết làm sao để cứu sống bà ta. Con gái ông là Xuân Hương rồi tỳ nữ là Bích Hà đều tình nguyện xin vào ngục đổi xiêm y để chết thay cho Chánh cung. Cuối cùng Bích Hà được làm việc này và Xuân Hương phải lãnh nhiệm vụ đưa bà Chánh cung đi lánh nạn.

Phương Cơ vâng lệnh cha, giả điên dại đến Kinh đô do thám tình hình và quay về báo với cha là Văn Hoán sắp giết Chánh cung. Ông Tạ Ngọc Lân đến chùa báo với Tư Cung rồi hai người lập tức ra đi, Tư Cung nói: “Thế nầy là chốn an thiềm dậy lửa trần ai!”

Giữa đêm, Kim Hùng hiệp đồng với Khắc Minh đưa Chánh cung đi nịch sát. Giữa đường bị một tráng sĩ xông vào đánh cướp tù nhân. Khắc Minh xin đi tiên phong đuổi bắt kẻ địch, ông bị thương nằm lại. Kim Hùng kéo quân đến thấy lão tướng bị thương phải dừng lại hỏi han và điều người khiêng Khắc Minh về lo điều trị. Khắc Minh làm việc này nhằm làm cho người cướp Chánh cung chạy thoát; ông chưa biết được người đó là Tư Cung. Kim Hùng vừa kéo quân đuổi tiếp thì thình lình gặp một người che mặt từ trong bụi nhảy ra đánh cho tối tăm mặt mày và phải rút quân. Người che mặt đó chính là ông Tạ Ngọc Lân.

Tư Cung và ông Ngọc Lân mừng là đã cứu được Chánh cung, hóa ra đó là Bích Hà.

Phương Cơ trở lên kinh sư và về báo với cha là mưu cơ của Khắc Minh đã bị bại lộ, nên Kim Hùng đã hạ ngục vị lão tướng và kéo quân đi vây bắt Chánh cung và Xuân Hương. Tình thế nguy cấp. Tư Cung và Bích Hà vội vã đi giải cứu Chánh cung. Phương Cơ lại lên Kinh đô, lập kế vào dinh Kim Hùng và cứu được Khắc Minh

Những người trung thành qua bao gian nguy, đã tụ tập đông đủ ở Hồng Sơn. Hoàng tử, con Chánh cung đã khôn lớn. Kim Hùng mang đại binh đến vây đánh Hồng Sơn. Không ai chống cự nổi tên hổ tướng tàn bạo này. Ông già Tạ Ngọc Lân xin ra đi, lập kế vào dinh để giết Kim Hùng. Ông nói: “Trong lửa hồng cha con lão có thiêu xương - Ngoài trời thẩm nước non nhà mới rạng vẻ”.

Mọi người làm lễ tế sống tiễn ông đi.

Khi doanh trại chảy, Kim Hùng chạy ra, bị ông Lân chặn lại. Nó đánh và bóp cổ ông, ông dùng thế võ kìm nó lại. Hai cha con cùng chết trong ngọn lửa rực hồng. Ông Lân cố gượng dậy phút cuối cùng để nhìn mặt đứa con và vuốt mắt cho nó.

Diệt được Kim Hùng, phe trung thần thừa thắng tiến về Kinh đô giết loài gian nịnh và phục quốc.

* Tên đoạn trích do người soạn đề - Cô Quỳnh Anh đặt: Nằm ở phần cuối vở tuồng (Tại Dinh Kim Hùng), Ông Lân (Tạ Lân) diệt được Kim Hùng (con trai mình), hai cha con chết trong ngọn lửa. Ông Lân cố gượng dậy phút cuối để nhìn mặt con và vuốt mắt cho con

(1) Thiết giản: roi sắt, một loại vũ khí bằng sắt như gươm, nhưng không sắt nhọn, dùng để đập

(2) Ấu nhi: Con nhỏ

(3) Cơ bần: Đói nghèo

(4) Trảo nha: Vuốt và nanh

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Văn bản trên thuộc thể loại:

A. Chèo cổ

B. Chèo bác học

C. Tuồng đồ

D. Tuồng pho

2. Văn bản kể lại sự việc gì?

A. Cuộc đối thoại và chiến đấu cuối cùng giữa hai cha con Tạ Ngọc Lân và Kim Hùng để tiêu diệt phe phản trắc

B. Sự thất bại của phe chính nghĩa Tạ Ngọc Lân

C. Sự hi sinh của Tạ Ngọc Lân trước con trai mình là kẻ phản trắc Kim Hùng

D. Cái chết của phe phản trắc Kim Hùng trước chính người cha Tạ Ngọc Lân

3. Câu thoại nào cho thấy được sự phản trắc, bất chấp mọi thứ của Kim Hùng (Lựa chọn NHỮNG đáp án đúng)

A. Nhắc chuyện cũ, càng thêm hổ thẹn,

Nghĩ tình xưa cũng phải phôi pha.

Ông đã đành làm trảo làm nha

Việc cần phải hết lòng hết dạ, (nghe!)

B. Truyền quân nhân gấp rút

Nối đèn đuốc sáng ngoài

Mau đón khắp mọi nơi

Quyết chẳng cho thoát chạy.

C. Ngọn lửa lên rất dữ,

Thế nước cứu khôn qua.

Cả tiếng kia kìa hỡi cha già.

Mau giúp sức cứu cho con trẻ.

D. Cách mặt lâu cũng nhớ, (Té ra!...)

Coi bộ khỏe như thường

(he! Tôi hỏi lâu nay)

Ông ở đâu, mau khá tỏ tường,

Rày tới đó, việc gì nói thử?

4. Lời thoại sau thể hiện phẩm chất nào của ông lão Tạ Ngọc Lân?

LÃO TẠ: (Nam): Thà cam liều một thân tàn,

Thịt xương xây đắp giang san muôn đời.

A. Dũng cảm, khí phách, dám hi sinh kể cả tình riêng để bảo toàn sự trung nghĩa

B. Đau đớn xót xa khi phải đưa ra quyết định bảo toàn sự trung nghĩa trước tình thân

C. Mong muốn xây đắp giang sơn muôn đời

D. Cam tâm tình nguyện hi sinh bản thân để bảo vệ cơ đồ non sông

5. Trước sự ngông cuồng của chính con trai Kim Hùng, lão Tạ (Tạ Ngọc Lân) đã đưa ra kế sách gì để dẹp trừ bạo tàn?

A. Dụ Kim Lân vào vòng vây hãm và đánh úp

B. Quyết tâm ra trận đấu trí với chính con trai

C. Đối mặt và cùng Kim Hùng thiêu cháy để diệt trừ tận gốc quân phản trắc

D. Đem quân nổi loạn đánh thẳng vào Dinh Kim Hùng

6. Lời thoại của mọi người tại căn cứ Hồng Sơn cho thấy được tình cảm của họ với lão Tạ trước hành động quyết hi sinh của lão như thế nào?

A. Đồng lòng đồng ý để lão Tạ đứng lên trừ gian diệt bạo

B. Quyết thay lão Tạ để diệt Kim Hùng vì không nỡ nhìn lão Tạ giết con trai mình

C. Cảm thương, xót xa, không nỡ để lão ra đi và chấp nhận hi sinh

D. Đồng lòng ủng hộ để lão ra đi

7. Đoạn trích trên thể hiện rõ được tình cảm cao đẹp thiêng liêng nào?

A. Tình cha con sâu nặng

B. Tình anh em huynh đệ

C. Lòng dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn

D. Tinh thần chính nghĩa và đứng về lẽ phải âu sắc sẵn sàng hi sinh cả tình cảm cá nhân

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Liệt kê và phân tích lời thoại của nhân vật Kim Hùng và nhân vật Tạ Lân để thấy được sự đối lập của hai nhân vật này

9. Chất bi hùng của sự kiện và tinh thần vì chính nghĩa được thể hiện trong đoạn trích trên như thế nào?

10. Viết đoạn văn khoảng 12 câu bàn luận về tinh thần chính nghĩa và vì lẽ phải trong cuộc sống ngày nay.

Đáp án:

1. D

2. A

3. A,B

4. A

5. C

6. C

7. B

8.

 

Kim Hùng

Tạ Lân

Lời thoại tiêu biểu

- Nhắc chuyện cũ, càng thêm hổ thẹn,

Nghĩ tình xưa cũng phải phôi pha.

Ông đã đành làm trảo làm nha

Việc cần phải hết lòng hết dạ, (nghe!)

- Truyền quân nhân gấp rút

Nối đèn đuốc sáng ngoài

Mau đón khắp mọi nơi

- Cách mặt lâu cũng nhớ, (Té ra!...)

Coi bộ khỏe như thường (he! Tôi hỏi lâu nay)

Ông ở đâu, mau khá tỏ tường,

Rày tới đó, việc gì nói thử?

- Bởi vô phúc sanh loài tặc bối,

Phải ra công chuộc tội lão phu.

Miễn đem về nghiệp cũ nghìn thu,

Nào xá kể xương tàn một nắm.

- Quyết vì nghiệp cả diệt loài gian.

- Tác tuy già, sức hãy còn hãng,

Việc sai khiến, lão xin cố gắng

- Gây tội ác, con đà thái quá,

Đoạn nhân tình cha khó nhiêu dụng (Lão bây giờ)

- Tày trời đất, tội khôn xiết kể, (Nói thiệt)

Cắt ruột già, tao quyết chẳng tha.

Chói lòng son coi nhẹ thân già,

Mượn ngọn lửa diệt trừ giặc trẻ.

Phẩm chất tính cách

- Bất hiếu, ngông cuồng

- Phản trắc sẵn sàng đấu với cả cha mình

- Dũng cảm, anh hùng vì nghĩa lớn

- Tự nhận bản thân sinh ra kẻ nghịch tử và phải chịu trách nhiệm

- Sẵn sàng chấp nhận cái chết (cùng con) để thực hiện lí tưởng lớn vì đất nước

9. Chất bi hùng của sự kiện và tinh thần vì chính nghĩa được thể hiện:

- Chất bi hùng: Sự kiện diễn ra tại các dinh, căn cứ chiến đấu, sự đối đầu giữa hai phe chính nghĩa và phản trắc trong trận chiến phân thắng bại cuối cùng

- Tinh thần chính nghĩa: Ông Tạ Lân sẵn sàng hi sinh tình riêng (cha con) để tiêu diệt bạo tàn, mở ra con đường tấn công cho phe chính nghĩa.

10. Mỗi người trong chúng ta đều khao khát hướng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống và lý trí sẽ dẫn dắt chúng ta đến những mục tiêu đó. Tinh thần chính nghĩa và bải vệ lẽ phải là một nhiệm vụ cần thiết và phải làm để bảo vệ sự đúng đắn, nhận thức về điều đúng, ủng hộ những điều tốt và tuân thủ đạo đức cũng như pháp luật. Một xã hội thiếu đi tinh thần chính nghĩa và tôn trọng lẽ phải sẽ bị những điều sai trái chiếm ưu thế, không thể tiến bộ mà chỉ trì trệ và tan rã. Chính nghĩa là gì? Đó là sự công bằng, chính trực. Lẽ phải là gì? Đó là điều đúng, tích cực, tuân thủ luật pháp và đạo lý. Tinh thần tôn trọng lẽ phải và chính nghĩa là gì? Ý thức bảo vệ lẽ phải chính là việc bảo vệ những giá trị tốt đẹp, để chúng có thể phát triển và mang lại niềm vui cho cuộc sống. Khi mọi người đều có ý thức bảo vệ và tôn trọng lẽ phải, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn nhiều, với mọi người sống đúng đạo lý và hướng đến lợi ích chung. Ngày nay, những ý tưởng tiêu cực, xấu xa, vi phạm pháp luật đã tràn lan. Chúng ta phải có ý thức làm sáng tỏ những điều xấu, đấu tranh để bảo vệ lẽ phải. Vì vậy, hãy củng cố kiến thức, tư duy và nhận thức của chúng ta để có thể nhận biết sự đúng đắn và sẵn sàng chiến đấu chống lại những điều sai trái.

Câu 2: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

 “Tôi bước vào tôi ô rằng vậy:

Chẳng giấu gì, tôi tên gọi Xúy Vân,

Lấy Kim Nham nhà khó gian truân,

Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi

Tôi ngồi từ tối

Đợi khách tha nhang

Gái phải nằm hàng

Nghề dại dột … nhưng tài cao vô giá.

Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ, ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân.

Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương

Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại.

Con gà rừng

Ăn lẫn với công

Đắng cay chẳng chịu được, láng giềng ai hay?

Chờ cho cây lúa chín vàng,

Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm.

Bông dắt, bông díu, xa lắc, xa líu, láng giềng ai hay,

Úc bởi Thung Huyên

Ơ, kìa con nhện, xuôi xuống đây vương tơ để đằng này xe chỉ đi!

Ngồi rồi xem nhện xe tơ,

Xem dăm sợi chỉ đợi chờ tình nhân.

Nhác trông lên núi Thiên Thai

Thấy hai con quạ ăn xoài trên cây

Đôi ta dắt díu lên đây

Áo trải làm chiếu, chăn quây làm mùng.

Chị em ơi, tôi nhớ tình nhân, cho tôi than thở một

câu nhá!    (Hạ)”

               (Kim Nham, chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm, chú thích; In trong Chèo cổ tuyển tập, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1976)

1: Đoạn trích “Xúy Vân giả dại” kể về việc gì?

A. Xúy Vân giả dại buộc Kim Nham phải trả nàng về nhà để đi theo Trần Phương.

B. Xúy Vân đau khổ vì bị Kim Nham lừa gạt nàng trở nên điên dại thật

C. Xúy Vân vì không chịu nổi cảnh xa chồng nên nàng giả điên dại

D. Xúy Vân vì thương nhớ chồng trở nên điên dại

2: Trong những câu sau câu nào thể hiện tâm trạng tự thấy mình lỡ làng, dở dang của Xúy Vân?

A. Con gà rừng ức bởi xuân huyên

B. Con gà rừng ăn lẫn với công-Đắng cay chẳng có chịu được, ức!

C. Tôi càng chờ đợi càng trưa chuyến đò

D. Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng

3: Trong những ý sau, ý nào KHÔNG thể hiện được sự đáng thương của nhân vật Xúy Vân?

A. Cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp đặt vội vàng, không có tình yêu.

B. Gặp Trần Phương, Xúy Vân tưởng gặp người tri kỉ nên đã yêu Trần Phương.

C. Xúy Vân là cô gái đảm đang khéo léo. Có mơ ước giản dị

D. Xúy Vân giả điên để theo Trần Phương.

4: Điều gì đã tạo nên mâu thuẫn trong tâm trạng của Xúy Vân?

A. Khát vọng giữa tình yêu và đạo đức

B. Khát vọng giữa tình yêu và thực tại

C. Khát vọng giữa tình yêu và cuộc sống.

D. Khát vọng giữa tình yêu và hoàn cảnh.

5: Nét đặc biệt của chèo cổ là gì?

A. Kết hợp giữa ba hình thức: dân ca, dân nhạc, dân vũ.

B. Kịch bản của chèo thường lấy từ tích cũ.

C. Sân khấu ở những sân đình.

D. Sự kết hợp giữa ca, múa, và lời nói

6: Phong cách biểu diễn của chèo thường mang tính:

A. Cụ thể  

B. Nhân hóa

C. Gây cười 

D. Ước lệ

7:  Mâu thuẫn và bi kịch của cuộc đời Xúy Vân là do:

A. Cha mẹ ép duyên

B. Chế độ phong kiến ngăn cản tình cảm, khát vọng con người.

C. Kim Nham yêu thương nàng

D. Gia đình chồng không yêu thương nàng

8: Qua đoạn trích, hãy nêu một số đặc điểm của ngôn ngữ chèo mà anh/chị nhận biết được (thể thơ quen dùng; chất liệu ca dao, dân ca;…)?

9: Qua lớp chèo này, anh/chị hiểu thêm được những điều gì về đời sống văn hóa làng xã Việt Nam thuở xưa?

10: Xúy Vân giả dại để che giấu điều gì? Anh/chị đánh giá như thế nào về hành động này của nhân vật?

Đáp án:

1. A

2. C

3. D

4. A

5. A

6. D

7. B

8.

- Có sự đan xen, phối hợp nhuần nhuyễn giữa nói và hát: xuyên suốt đoạn trích, lời thoại của Xúy Vân được thể hiện qua nhiều điệu như nói lệch, vỉa, hát quá giang, đế, điệu con gà rừng, hát sắp, nói, hát ngược.

- Ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa: “Bông bông dắt, bông bông díu/ Xa xa lắc, xa xa líu”

- Cách nói ví von giàu tính tự sự trữ tình: “Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng”, “chờ cho bông lúa chín vàng”, “con cá rô nằm vũng chân trâu/ để cho năm bảy cần câu châu vào”,…

9. Lớp chèo có thể hiện nhiều yếu tố về đời sống văn hóa làng xã Việt Nam xưa như:

- Tin tưởng vào tín ngưỡng: “than cùng bà Nguyệt”, “ông Bụt”

- Hàng xóm láng giềng sống với nhau gần gũi, đoàn kết: Xúy Vân gọi mọi người là “chị em ơi!”, lời nói thủ thỉ tâm tình “Chị em ơi tôi than vài câu nhé, chuyện của Xúy Vân láng giềng cũng đều hay biết.

10.

- Xúy Vân giả dại để che giấu sự thật rằng mình đã trót say đắm Trần Phương mà phụ bạc Kim Nham, đồng thời hành động giả dại của nàng còn có mục đích muốn được tự do, thoát khỏi Kim Nham để đi theo Trần Phương.

- Hành động này của Xúy Vân tuy là sai trái vì đã phụ chồng, không phải là hành vi đoan chính nhưng đặt trong hoàn cảnh của người phụ nữ xưa thì đây là một điều phần nào có thể thông cảm được vì nàng đang phải sống những ngày vò võ cô đơn đợi chồng về, trong xã hội xưa người phụ nữ lại không được tự do tìm kiếm hạnh phúc nên đây có thể là một phút yếu lòng của Xúy Vân.

Câu 3: CHÂU LONG GẶP GỠ VÀ GIÚP ĐỠ LƯU BÌNH

(Trích chèo “Lưu Bình Dương Lễ”)

LƯU BÌNH:

Thương ơi, Tôi tưởng bạn tôi làm nên danh phận

Rắp đem thân tới bạn mà nhờ

Không ngờ bạn chẳng đoái tình xưa

Thân tôi thế tôi, trách người sao được

Đây đã về đến cây cao bóng mắt

Thấy chữ đề là quán Nghinh Hương Quán mát mẻ, tôi vào chơi tạm trú

Sẵn bút nghiên, tôi đề thơ nhất thủ (1)

Đề bốn câu cho giãi tấm lòng sầu.

Thơ rằng:

Của tuyết, then sương đã bấy lâu

Khó hèn sao nỡ vội quên nhau

Sớm muộn bởi giời duyên với phận

So ra ai đã kém ai đâu.

CHÂU LONG: (Hát sắp)

Vì chàng thiếp phải long đong quan

Những như thân thiếp đã xong một bề

(Nói với Lưu Bình)

Thiếp đứng ngoài nghe trộm đã lâu

Xem thơ ấy bất bình lắm nhẽ

Gặp chàng đây cũng là vắng vẻ

Thiếp tỏ tường thua lại chàng hay

Chắc chàng còn mắc míu chi đây

Chàng nói thực thiếp tôi được biết.

LƯU BÌNH:

Nhọc nhằn nói chẳng ra hơi

Nàng đã hỏi tôi xin nói

Có bạn với Dương công từ thuở hàn vi

Tôi mong tìm đến anh em mà cậy

Một là bận việc quan nên người quên khuấy

Người đắc thì tôi lại thất thì

Hai nữa là phú tác dịch giao

Tôi chờ ba ngày cũng chẳng được vào

Đúng lơ láo không ai chào hỏi

Trục sau thấy chú phòng ra nói

Nói những lời không đánh mà đau

Cho nên trong dạ thảm sầu

Thân Lưu này có muốn sống làm chi nữa.

CHÂU LONG:

Thiếp xin chàng, dùng với giận làm chi

Có thương thiếp xin nghe lời thiếp nói

Vốn thiếp nay con nhà giòng dõi

Đeo hồng nhan luống những cậy mình

Một hai ước hảo cầu cát sĩ

Bac mẹ thiếp tham bên phú quý

Ép thiếp vào một của phú thương

Trái nhân duyên nhiều nỗi dở dang

Trái duyên kiếp ở làm sao được

Thiếp chẳng quản đường trường non nước

Bước chân di đã có nhời nguyền

Hễ gặp chàng nho sĩ kết duyên

Bõ lòng thiếp rày ao mai ước.

Gặp chàng đây đang con lỡ bước

Thiếp xin theo về sửa túi nâng khăn

Giúp cơm áo cho chàng ăn học

LƯU BÌNH:

Quả tôi nay đang con tủi nhục

Mà nàng có lòng thương

Gánh việc tư lương

Giúp công đăng hoa

Nàng là bậc phong lưu phú quí

Đưa nàng đi vất vả sao đành

Xét mình tôi còn muộn khoa danh

Đa mang thế, sợ những công đèn sách.

CHÂU LONG:

Khuyên chàng đứng lên đi

Kẻo đường còn xa lắc

Hành lý này thiếp lĩnh, thiếp mang

Thiếp xin theo về cho đến gia trang

Giúp cơm áo cho chàng ăn học.

CẢ HAI: (Sa lệch) Quán Nghinh Hương kỳ ngộ thiên duyên

Tấm lòng phó mặc hoàng thiên sách bày

Tơ hồng nguyệt lão xe dây...

LƯU BÌNH:

Nay đã về đến quê nhà

Nhà tứ bích, nhất trần như tẩy (2)

Khó hèn như thân Lưu đành vậy

Nàng đa mang chi... vất vả sao đành?

Vốn tôi nay còn muộn công danh

Thân lận đận sợ nàng khóc nhọc

CHÂU LONG:

Cũng bởi lửa hương duyên bén

Quản lầm than thiếp đến chi đây

Thiếp khuyên chàng có một lời này

Chàng có nghe thiếp xin vâng nói

Gian nhà này, xin ngăn làm đôi vách

Chàng phòng ngoài, thiếp ở phòng trong

Chàng đêm ngày luyện tập sử văn

Thiếp khuya sớm ra tay kim chỉ

LƯU BÌNH: (Ngồi học, hát nam sử)

Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.

Cổ thế từng khen thượng đại nhân

Nghiêu, Thuấn, thuận theo, Nghiêu Thuấn trị

Võ Thang nối nghiệp, Võ Thang văn.

CHÂU LONG (Hát tiếp)

Thiếp khuyên chàng gắng công đèn sách

Nữa một mai nhất cử đăng khoa

Cho bõ công thày mẹ sinh ra

Nhớ đến chữ thánh nhân mới khá.

LƯU BÌNH (Tiếp)

Tam vương đức lớn, tam vương thịnh

Ngũ đế tài cao, ngũ đế xuân

Mùng gặp hội lành đua nết tốt

Thái bình thiên tử thái bình dân.

CHÂU LONG (Hát tiếp) - Đế

Trỗi Thiếp giữ nếp chân dày, tay dệt

Chàng thời ôn kinh thánh, truyện hiền

Sang trống canh ba, nghe chuông đổi thay quyền

Đánh thức dạy, thiếp khuyên chàng sáng nghiệp.

LƯU BÌNH:

Nàng ơi,

Ba năm nay những riêng chăn, riêng gối

Sự giảng hoa anh chẳng dám ngỏ lời

Nàng mở của ra cho anh từ biệt một đôi lời

Trước tiểu đăng khoa sau đại đăng khoa tin

Trước ứng điểm bẻ quế, thăm hoa

Sau bộ thỏa tấm lòng thương nhớ.

CHÂU LONG:

Lời chàng dạy không nghe thì sợ

Ba năm nay ngọc khiết băng thanh

Chẳng bao lâu công toại danh thành

Đã chính thủy xin chính chung cho vẹn

Chàng ra thị thiếp cũng xin theo

Chàng làm nên áo gấm tên treo

Thiếp trở về nói cho bằng lòng cha mẹ.

LƯU BÌNH:

Nàng đã nói thời sửa sang hành lý

Vợ chồng ta cùng trảy vào thi

HAI NGƯỜI: (Hát sa lệch)

Công phu đèn sách chuyên cần

Ra tài quyết chí lập thân hội này

Bảng vàng, thẻ bạc về tay

Bõ công học tập theo thày bấy lâu

Mong sau rạng nếp công hầu...

(Cùng hạ)

(Trích Hà Văn Cầu, Tuyển tập chèo cổ, NXB Sân khấu,1999)

Chú thích:

Tóm tắt vở chèo: Xưa có một người tên là Dương Lễ, quê quán ở xứ Sơn Tây, gặp một người tên là Lưu Bình. Hai người đều ham chuộng thơ văn, liền làm bạn với nhau, rồi cùng lên đường về kinh đô theo học. Hai người được thầy tận tình truyền dạy văn chương chữ nghĩa và đạo lý làm người.

Dương Lễ đỗ Trạng nguyên, được làm quan. Trong khi đó, Lưu Bình thi trượt, phải sống lang thang, rồi trở về quê. Cuộc sống khó khăn, lại gặp cảnh loạn lạc, Lưu Bình nghĩ đến người bạn kết nghĩa năm xưa, bèn tìm đến nhà Dương Lễ. Dương Lễ không ra gặp mặt mà sai đày tớ hắt hủi Lưu Bình, bưng ra mời bát cơm nguội cùng quả cà thiu. Lưu Bình thất vọng muốn tìm tới cái chết. Dương Lễ muốn cậy nhờ người vợ ba của mình thay chàng đi nuôi bạn ăn học. Châu Long thấy vậy liền nhận lời để giúp chồng thỏa ý nguyện.

Châu Long từ biệt chồng, một mình nàng cất bước ra đi. Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình, còn Châu Long thì kể rằng cha mẹ gả nàng cho một người giàu có, nhưng nàng không chịu nổi cuộc sống ở đó, bèn tự ý bỏ đi. Khi thấy Lưu Bình ngỏ ý muốn quyết chí đèn sách học hành, Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.

Châu Long mang số tiền Dương Lễ giao cho nàng đem theo để cất lại ngôi nhà và đón thày về dạy học cho Lưu Bình. Còn nàng ở riêng trong một căn phòng nhỏ, ngày đêm đảm đang quán xuyến gia đình, không chút vương vấn nguyệt hoa. Thấm thoắt đã qua ba mùa hoa nở, Châu Long hết lòng chăm lo cho Lưu Bình ăn học mà lòng nàng không lúc nào nguôi nỗi nhớ mong chồng.

Vua ban chiếu mở khoa thi kén Trạng nguyên. Lưu Bình từ biệt Châu Long và thày dạy học để lên kinh đô ứng thí và đỗ ngôi đầu Trạng nguyên. Trong khi đó, ở nơi quê nhà, nàng Châu Long hay tin Lưu Bình đã đỗ Trạng nguyên, nàng liền vui mừng sắp đặt nhà cửa gọn gàng ngăn nắp, gửi gắm xóm giềng để trở về phủ Dương Lễ. Lưu Bình khi về tới nơi, chẳng thấy Châu Long đâu cả. Chàng lại tìm đến nhà quan Dương Lễ và được Dương Lễ ân cần đón tiếp, hỏi han. Lưu Bình buồn rầu thuật lại chuyện gia đình. Dương Lễ lần lượt cho gọi ba người vợ ra mời rượu Lưu Bình. Khi nhìn thấy Châu Long thì chàng chợt hiểu sự tình.

* Tên đoạn trích do người soạn đề đặt: Nằm ở phần giữa đoạn trích: Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình, còn Châu Long thì kể rằng cha mẹ gả nàng cho một người giàu có, nhưng nàng không chịu nổi cuộc sống ở đó, bèn tự ý bỏ đi. Khi thấy Lưu Bình ngỏ ý muốn quyết chí đèn sách học hành, Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.

(1) Đề thơ một bài

(2) Ý nói nhà quá nghèo, trong nhà bốn bức tường nhãn nhụi như chùi, như rửa

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Văn bản trên thuộc thể loại:

A. Chèo cổ (chèo sân đình)

B. Chèo bác học

C. Tuồng đồ

D. Tuồng pho

2. Văn bản kể lại sự việc gì?

A. Lưu Bình thất vọng muốn tìm tới cái chết. Dương Lễ muốn cậy nhờ người vợ ba của mình thay chàng đi nuôi bạn ăn học. Châu Long thấy vậy liền nhận lời để giúp chồng thỏa ý nguyện.

B. Châu Long từ biệt chồng, một mình nàng cất bước ra đi. Giữa đường, nàng ghé quán Nghinh Hương. Tại đây, nàng gặp Lưu Bình trên đường về quê cũng đang tạm dừng chân. Hai người trò chuyện hồi lâu. Lưu Bình thuật lại đoạn đời gian nan vất vả của mình. Châu Long liền ưng thuận theo chàng về quê để nuôi chàng ăn học.

C. Châu Long mang số tiền Dương Lễ giao cho nàng đem theo để cất lại ngôi nhà và đón thày về dạy học cho Lưu Bình. Còn nàng ở riêng trong một căn phòng nhỏ, ngày đêm đảm đang quán xuyến gia đình, không chút vương vấn nguyệt hoa

D. Vua ban chiếu mở khoa thi kén Trạng nguyên. Lưu Bình từ biệt Châu Long và thày dạy học để lên kinh đô ứng thí và đỗ ngôi đầu Trạng nguyên. Trong khi đó, ở nơi quê nhà, nàng Châu Long hay tin Lưu Bình đã đỗ Trạng nguyên, nàng liền vui mừng sắp đặt nhà cửa gọn gàng ngăn nắp, gửi gắm xóm giềng để trở về phủ Dương Lễ

3. Khi kể lại câu chuyện bị Dương Lễ ghẻ lạnh, lời thoại nào miêu tả rõ tâm trạng, cảm xúc của Lưu Bình?

A. Cho nên trong dạ thảm sầu

Thân Lưu này có muốn sống làm chi nữa.

B. Vốn tôi nay còn muộn công danh

Thân lận đận sợ nàng khóc nhọc

C. Một là bận việc quan nên người quên khuấy

Người đắc thì tôi lại thất thì

D. Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.

Cổ thế từng khen thượng đại nhân

4. Lưu Bình đã giãi bày những khó nhọc nào của bản thân với Châu Long?

A. Gia cảnh nghèo khó “Nhà tứ bích, nhất trần như tẩy”

B. Chưa có thành tựu công danh

C. Gia cảnh nghèo khó và chưa đỗ đạt công danh

D. Bản thân là người đã có ước hẹn ở quê nhà

5. Đáp lại lời giãi bày và do dự của Lưu Bình, Châu Long đã có lời lẽ ra sao?

A. Bày tỏ mong muốn chăm sóc, hỗ trợ Lưu Bình vì thấy chàng là nho sĩ nên thỏa lòng ao ước được cùng đồng hành vì nàng rất thích các nho sĩ.

B. Kể lại câu chuyện mình bị ép duyên và hiện nay nàng không có ai nương tựa, chỉ có thể nhờ vào mối duyên bất ngờ với Lưu Bình

C. Kể lại câu chuyện mồ côi của mình và bản thân phải tha hương cầu thực, chỉ có thể nương vào mối duyên với Lưu Bình

D. Kể lại câu chuyện mình bị ép duyên và tự ý bỏ nhà ra đi. Bày tỏ mong muốn chăm sóc, hỗ trợ Lưu Bình vì thấy chàng là nho sĩ nên thỏa lòng ao ước được cùng đồng hành.

6. Lời hát sa lệch (lời hát thường dùng để miêu tả tâm trạng) ở đoạn cuối đoạn trích cho thấy điều gì về nhân vật Lưu Bình và Châu Long?

HAI NGƯỜI: (Hát sa lệch)

Công phu đèn sách chuyên cần

Ra tài quyết chí lập thân hội này

Bảng vàng, thẻ bạc về tay

Bõ công học tập theo thày bấy lâu

Mong sau rạng nếp công hầu...

A. Lời bày tỏ tình cảm của Lưu Bình với Châu Long

B. Lời bày tỏ tình cảm của Châu Long với Lưu Bình

C. Lời giãi bày thể hiện quyết tâm ý chí tu luyện để công thành danh toại của Lưu Bình

D. Lời giãi bày thể hiện ý chí quyết tâm đồng lòng của Lưu Bình và Châu Long

7. Hành động ba năm gắn bó, lo lắng cho việc đèn sách của Lưu Bình mà vẫn giữ được tiết hạnh trong sạch, cho thấy Châu Long là người như thế nào?

A. Không vì lợi ích cá nhân

B. Thủy chung tình nghĩa với Dương Lễ và thấu tình đạt lí

C. Thấu tình đạt lí

D. Hết mực chung thành với Dương Lễ

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Nêu đặc điểm của ngôn ngữ chèo được thể hiện qua đoạn trích

9. Qua đoạn trích trên, em hãy nhận xét về phẩm chất của nhân vật Lưu Bình và Châu Long.

10. Đoạn trích thể hiện được sự ân tình của Châu Long khi hết lòng hỗ trợ giúp đỡ Lưu Bình cho tới ngày chàng vào kinh ứng thi. Từ nội dung chủ đề của đoạn trích, em hãy viết đoạn văn khoảng 12 câu bàn luận về lối sống ân tình của người Việt Nam.

Đáp án:

1. A

2. B

3. A

4. C

5. D

6. C

7. B

8. Đặc điểm của ngôn ngữ chèo được thể hiện qua đoạn trích:

- Đan xen giữa nói và hát: Lời nói xen lẫn lời hát sắp, hát sai lệch của Châu Long và Lưu Bình

Hát sa lệch:

Công phu đèn sách chuyên cần

Ra tài quyết chí lập thân hội này

Bảng vàng, thẻ bạc về tay

Bõ công học tập theo thày bấy lâu

Mong sau rạng nếp công hầu...

CHÂU LONG: (Hát sắp)

Vì chàng thiếp phải long đong quan

Những như thân thiếp đã xong một bề

(Nói với Lưu Bình)

Thiếp đứng ngoài nghe trộm đã lâu

Xem thơ ấy bất bình lắm nhẽ

Gặp chàng đây cũng là vắng vẻ

Thiếp tỏ tường thua lại chàng hay

Chắc chàng còn mắc míu chi đây

Chàng nói thực thiếp tôi được biết.

- Sử dụng các điển tích, điển cố, ca dao:

+ Các đại nhân nổi tiếng

Thánh nhân, thiên tử, thánh nhân quân.

Cổ thế từng khen thượng đại nhân

Nghiêu, Thuấn, thuận theo, Nghiêu Thuấn trị

Võ Thang nối nghiệp, Võ Thang văn.

- Sử dụng các làn điệu, lối hát riêng của chèo: Sa lệch, hát sắp, tiếng đế,…

9.

- Lưu Bình: Ban đầu, đau khổ vì bị khinh dễ, coi thường. Sau đó quyết tu tâm tu chí để học hành và đi thi

- Châu Long: Thủy chung, tình nghĩa, hết lòng hỗ trợ, nâng đỡ cho Lưu Bình nhưng rất thủy chung, giữ lễ nghĩa vì Dương Lễ.

10. Con người Việt Nam có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Trong đó, lối sống nghĩa tình thật đáng trân trọng. Trước hết, lối sống tình nghĩa là sống có trước sau, ghi nhớ ơn nghĩa của người khác cũng như biết giúp đỡ, chia sẻ với mọi người xung quanh. Người sống tình nghĩa sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc, thanh thản. Lối sống tình nghĩa sẽ giúp chúng ta được mọi người yêu thương, trân trọng. Dân tộc Việt Nam có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phong tục thờ cúng tổ tiên, hay các lễ hội được tổ chức nhằm tri ân những bậc anh hùng có công với đất nước. Trong đại dịch Covid-19 vừa diễn ra, chúng ta cùng nhau giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Khi đồng bào miền Trung đã phải đối mặt với lũ lụt. Nhà cửa, của cải đều mất trắng, thậm chí nhiều người đã phải bỏ mạng trước thiên tai khốc liệt. Lúc này, mọi người lại hướng về đồng bào miền Trung với sự sẻ chia, yêu thương sâu sắc. Sống tình nghĩa là lối sống đẹp, mỗi người cần tích cực phát huy.

Câu 4: Đọc văn bản sau:

GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ)

(Trích chèo “Trương Viên”)

Tiếng hát hậu trường:

(Văn binh lửa)

Binh lửa ầm ầm

Gió bay nhà bạc, cát lầm của thưa Tùng bước ngẩn ngơ

Mẹ già đầu bạc, con thơ má đào.

Mụ:

(Nói) Giặc dùng dùng kéo đến sau lưng

Con dắt mẹ đi làm sao được (Hát vãn)

Đành như bẻ ngô, lìa tơ

Lênh đênh góc bể, bơ vơ chân trời.

Thị Phương:

Trình lạy mẹ,

Khôn xiết lao đao

Bởi vì ai xui khiến

Chẳng may ra gặp cơn binh biến

Kẻo con còn mang một chút má hồng

Sợ kẻ gian hùng, con lỗi đạo tao khang (Hát thảm)

Trước là thất tiết cùng chàng

Sau con bỏ mẹ giữa đàng ai nuôi.

Con đưa mẹ vào ẩn chốn sơn lâm

Mụ:

Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lâm...

Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng.

Thị Phương: (Nói sứ)

Mẹ ơi,

Con trông bên đông có lửa

Mẹ ngồi đây, con thử vào coi

Có cơm cháo xin người thí bỏ

Quỷ: (Ra) Động ta đây nghiên chỉnh sắp bày

Ủa kìa người họa phúc tới đây

Sai chúng quỷ ra vây bắt lấy

(Xung danh) Mỗ bạch yêu tinh

Chiếm cao san nhất động

Ngày ngày thường bát người nuốt sống

Đêm thời đón khách nhai gan

Lộc thiên trù đưa đến tự nhiên (1)

Nay được bữa no say... cha chả!

Này người kia,

Sơn lâm rừng vắng Đỉnh thượng non cao

Chốn hang sâu sao dám tìm vào

Đi đâu đó, kìa con, nọ mẹ?

Thị Phương:

Trinh lạy ông thương đoái

Mẹ con tôi đói khát làm thay

Xây nhà lạc bước đến đây

Có con cháo xin người thì bố

Quỷ:

Không khiến kêu van kể là

Ta quyết nhai tuổi, nuốt sống không tha

Quỷ cái: (Ra)

Chàng ăn thịt gì cho thiếp tôi ăn với!

Quỷ:

Ta ăn thit Thị Phương

(Lược đoạn Quỷ nói chuyện với Quỷ cái, Quỷ cái xin là em kết nghĩa để Thị Phương không bị ăn thịt, cuộc nói chuyện của thần linh và Thị Phương và mẹ để tránh nạn bị ăn thịt)

Thị Phương: (Quay ra) - Mẹ thức hay ngủ mẹ ơi!

Mụ: - Con vào đấy có được tí gì không?

Thị Phương: - Thưa mẹ, con vào đó, quỷ đông đòi ăn thịt

Mụ: - Ăn cơm với thịt đông à?

Thị Phương: - Quỷ đông đòi ăn thịt con, mẹ ạ.

Quỷ cái ra can rồi lại cho vàng.

Mụ:

(Cầm vàng hát sắp) - Ở hiền rồi lại gặp

lành

Mẹ lại ngại thân con (Hát văn)

Như dao cắt ruột mẹ ra (Nói)

- Con ơi, trời còn sớm hay đã tối mà con cứ dắt mẹ đi mãi thế này?

Gặp vợ chú quỷ cho thanh tre già

(Nói sử) Ối con ơi,

Mẹ cảm thương thân mẹ

Trăm sầu, nghìn thảm chất đà nên con!

Thị Phương:

- Trình lạy mẹ,

Vầng ô đã lặn

Vắng vẻ của nhà

Mẹ con ta vào gốc cây đa

Nằm nghỉ tạm qua đêm sẽ liệu (ngồi nghỉ)

Thần rừng (Hổ): (Ra)

- Ra oai hùm gầm kêu ba tiếng

Phóng hào quang chuyển động phong lôi

Xa chẳng tỏ, nhảy lại ngô coi

Giống chi chi như thể hình người

Đi đâu đó? - Kìa con, nọ mẹ

Muốn sống thời ai chịu cho ai

Vào nộp mệnh cho ta nhai một.

Thị Phương: - Trăm lạy ông,

Nhẽ ngày hôm qua một tận không còn

Tôi kêu trời khấn đất đã vang

Qua nạn ấy, nạn này lại phải

Ông ăn thịt một, còn một ông tha

Ông để mẹ già, tôi xin thế mạng.

Ơn ông vạn bội

Mụ:

Con tôi còn trẻ

(Nói sứ) Trình lạy ông

Công sinh thành, ông để tôi đền

Ông ăn thịt tôi, ông tha cháu nó

Thị Phương: - Thưa mẹ, mẹ để con chịu cho

Mụ:

Ới con ơi, con còn trẻ người non dạ, để mẹ chịu cho.

Thần rừng (Hổ): - Nhẽ ra thời ăn thịt cả không tha

Thấy mẹ con tiết nghĩa thay là

Tha cho đó an toàn tính mệnh

(Trích Hà Văn Cầu, Tuyển tập chèo cổ, NXB Sân khấu,1999)

Chú thích:

Tóm tắt vở chèo: Trương Viên quê đất Võ Lăng, nhờ mẹ sang hỏi cưới Thị Phương, người con gái của Tể tướng đã hồi hưu, thấy chàng học giỏi, cha Thị phương đồng ý và cho đôi ngọc lưu ly làm của hồi môn. Giữa lúc chàng đang dùi mài kinh sử thì được chiếu đòi đi dẹp giặc, chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ ra chiến trường. Trong cảnh chạy giặc, Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc suốt mười tám năm. Hai người bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng miếng thịt nơi cánh tay để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con. Mẹ ốm, nàng dâng đôi mắt mình để Sơn Thần làm thuốc chữa cho mẹ. Để có cách sinh nhai, Ngọc Hoàng sai Chúa Tiên xuống dạy nàng nghề đàn hát. Thắng trận trở về, Trương Viên trở về quê cũ tìm mẹ già và vợ, sau đó đi nơi khác, chàng gặp hai mẹ con bà hát xẩm. Qua bài Trần tình, chàng đã nhận ra mẹ và vợ. Nhờ ngọc lưu ly, đôi mắt của Thị Phương trở lại trong sáng như xưa

* Tên đoạn trích do người soạn đề đặt: Thị Phương và mẹ chồng bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng miếng thịt nơi cánh tay để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con.

(1) Lộc thiên trù: Lộc của bếp nhà trời ban cho

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Văn bản trên thuộc thể loại:

A. Chèo cổ (chèo sân đình)

B. Chèo bác học

C. Tuồng đồ

D. Tuồng pho

2. Văn bản kể lại sự việc gì?

A. Mẹ chồng ốm, nàng dâng đôi mắt mình để Sơn Thần làm thuốc chữa cho mẹ.

B. Để có cách sinh nhai, Ngọc Hoàng sai Chúa Tiên xuống dạy nàng nghề đàn hát. Thắng trận trở về, Trương Viên trở về quê cũ tìm mẹ già và vợ, sau đó đi nơi khác, chàng gặp hai mẹ con bà hát xẩm. Qua bài Trần tình, chàng đã nhận ra mẹ và vợ.

C. Thị Phương và mẹ chồng bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng miếng thịt nơi cánh tay để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con.

D. Trương Viên quê đất Võ Lăng, nhờ mẹ sang hỏi cưới Thị Phương, người con gái của Tể tướng đã hồi hưu, thấy chàng học giỏi, cha Thị phương đồng ý và cho đôi ngọc lưu ly làm của hồi môn. Giữa lúc chàng đang dùi mài kinh sử thì được chiếu đòi đi dẹp giặc, chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ ra chiến trường.

3. Thị Phương đã có những hành động nào thể hiện sự hiếu thuận của mình?

A. Xin cơm cho mẹ chồng

B. Xin Quỷ dữ tha mạng cho hai mẹ con

C. Cầu xin thần rừng (Hổ) lấy mạng mình thay cho mẹ

D. Tất cả các đáp án trên

4. Trước sự cầu xin của Quỷ cái, Quỷ dữ đã có quyết định ra sao?

A. Ăn thịt Thị Phương do quỷ dữ đã quá đói

B. Tha mạng cho Thị Phương và mẹ chồng nàng

C. Cùng Quỷ cái ăn thịt Thị Phương

D. Lấy một cánh tay của Thị Phương để đổi lấy mạng sống

5. Lời nói sử của mẹ trong câu sau thể hiện điều gì?

(Nói sử) Ối con ơi,

Mẹ cảm thương thân mẹ

Trăm sầu, nghìn thảm chất đà nên con!

A. Người mẹ cảm thấy sầu thảm khi trở thành gánh nặng cho con

B. Người mẹ cảm thấy thương thân cho chính mình

C. Người mẹ cảm thấy sầu thảm và thương cho con dâu và bản thân

D. Người mẹ cảm thấy sầu thảm vì con dâu lại đem mình theo để mình chịu khổ

6. Lí do vì sao thần rừng (hổ) lại tha mạng cho Thị Phương?

A. Do thần rừng nhìn thấy được tiết nghĩa cảm động giữa hai mẹ con Thị Phương

B. Do thần rừng đã ăn no và không muốn làm khó Thị Phương

C. Do thần rừng biết Thị Phương có Ngọc Hoàng bảo vệ

D. Do thần rừng cảm thấy lời năn nỉ, cầu xin của Thị Phương có lí

7. Nhân vật Thị Phương hiện trong đoạn trích là người như thế nào?

A. Dũng cảm và hết mức mạnh mẽ

B. Người con vô cùng hiếu thảo, yêu thương mẹ già

C. Người thông minh nhanh trí

D. Người phụ nữ đức hạnh

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Theo lẽ thường, quan hệ mẹ chồng nàng dâu vốn có nhiều khúc mắc và xích mích, khó có thể hòa hợp. Nhưng trong đoạn trích có thể thấy mối quan hệ giữa Thị Phương và mẹ chồng vô cùng gần gũi, thân thiết. Em có biết tác phẩm nào cũng thể hiện được mối quan hệ tốt đẹp giữa mẹ chồng và nàng dâu không? Theo em, việc xây dựng tình huống và sự việc con dâu có hiếu với mẹ chồng nhằm mục đích gì?

9. Qua đoạn trích trên, em hãy nhận xét về phẩm chất của nhân vật Thị Phương

10. Đoạn trích thể hiện được sự hiếu thảo của Thị Phương với mẹ chồng, viết đoạn văn khoảng 12 câu bàn về lòng hiếu thảo.

Đáp án:

1. A

2. C

3. D

4. B

5. A

6. A

7. B

8.

- Tác phẩm cùng thể hiện được mối quan hệ tốt đẹp giữa mẹ chồng và nàng dâu: Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ).

- Mối quan hệ vốn theo lẽ thường không tốt đẹp nhưng lại tốt đẹp với Thị Phương

-> Mục đích: Tô đậm nét đức hạnh, hiếu thảo, trọng tình nghĩa của nhân vật

9.

- Phẩm chất của nhân vật Thị Phương: Hiếu thảo, chăm lo, hết lòng vì mẹ chồng và gia đình nhà chồng.

- Dẫn chứng:

+ Lời van xin quỷ dữ và thần rừng không ăn thịt mẹ, sẵn sàng chết thay mẹ

+ Hết lòng chăm sóc mẹ chồng và tìm đồ ăn thức uống cho bà

10. Hiếu thảo là một trong những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Lòng hiếu thảo là tấm lòng biết ơn, kính trọng sâu sắc của bậc con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Lòng hiếu thảo được biểu hiện bằng những tình cảm, hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Đó có thể là sự lễ phép, kính trọng, cũng có thể là tình yêu thương, cảm thông sâu sắc, là sự cố gắng học tập và làm việc để đền đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ của cha mẹ, ông bà. Trong cuộc sống, nếu chúng ta biết hiếu thảo, biết yêu thương, trân trọng những người thân trong gia đình thì không chỉ tạo ra niềm vui, niềm hạnh phúc mà còn góp phần làm cho xã hội văn minh hơn. Thật vậy! Đấng sinh thành là những người đã đưa chúng ta đến với cuộc đời, nuôi dưỡng, bảo bọc và che chở cho ta bằng tất cả tình yêu thương. Vì vậy, hiếu thảo không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của mỗi người con, người cháu trong gia đình. Chúng ta cần ý thức được điều này, sống và làm việc có trách nhiệm, luôn yêu thương, kính trọng bề trên, không ngừng cố gắng để đền đáp công ơn, tình cảm to lớn của cha mẹ. Bên cạnh đó, cần lên án, phê phán những hành động bất hiếu, vô cảm, thậm chí là đánh đập người thân của một bộ phận người trong xã hội hiện nay. Tóm lại, lòng hiếu thảo từ xưa đến nay vẫn luôn là đạo lý tốt đẹp được truyền từ đời này sang đời khác, chúng ta cần biết giữ gìn và phát huy thật tốt truyền thống đạo lý đó.

Câu 5:

NỖI OAN HẠI CHỒNG

(Trích Quan Âm Thị Kính)

THIỆN SĨ: (nói sử) Nàng ơi, đã bao lâu soi kinh bóng quế (1))

Ta dùi mài đợi hội long vân (2)

Đêm nay nghe mỏi mệt tâm thần

Mượn kỉ này ta nghỉ lưng một lát.

(Thị Kính dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thiện Sĩ thiu thiu ngủ. Một lát, Thị Kính chăm chú nhìn dưới cằm chồng, băn khoăn).

THỊ KÍNH: (nói sử) Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc (3),

Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.

Râu làm sao một chiếc trồi ra?

Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược

Khi chàng thức giấc biết làm sao được.

Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng

Dạ thương chồng lòng thiếp sao an

Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.

(Thị Kính cầm dao khâu xén chiếc râu. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên).

THIỆN SĨ: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng!

Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường...

(Sùng ông, Sùng bà cùng hốt hoảng chạy ra).

SÙNG BÀ: Làm sao đấy hở? Làm sao?

SÙNG ÔNG: Bất thường làm sao? Việc gì ban đêm không để xóm giềng ngủ. Vợ chồng lại rầm rĩ lên như thế?

THIỆN SĨ: (nói đếm)

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ.

Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ

Dầu thực hư đôi lẽ con chưa tường.

SÙNG ÔNG: Hú vía! Kề cổ mày hay kẻ cổ ai hở con?

SÙNG BÀ: (gắt Sùng ông)

Thôi đi, lại còn kề cổ ai vào đây nữa?

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? (Dúi đầu Thị Kính ngã xuống) Úi chao! Tôi đã bảo ông mà!

Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu kia mà! (Múa hát sắp chợt)

Giống phượng giống công

Giống nhà bà đây giống phượng giống công.

Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ.

Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra,

Chứ bây giờ sao chẳng mở cái mồm ra ?

THỊ KÍNH: (khóc)

Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ...

SÙNG BÀ: Thôi câm đi! Lại còn dám mở mồm nữa à?

(Tiến lại phía Thiện Sĩ) Úi chao! Hú hồn hú vía cho con tôi!

Giải kiếp! Giải kiếp! (Quay lại Thị Kính)

(Nói lệch) Cả gan! Cả gan! Cái con này thật cả gan! May cho con tao sực tỉnh giấc vàng,

Tỉnh tình tinh nữa còn gì mà không chết?

Này con kia! Mày có trót say hoa đắm nguyệt

Đã trên dâu dưới bộc hẹn hò...

THỊ KÍNH: (vật vã khóc) Giời ơi ! Mẹ ơi, oan con lắm mę ơi!

SÙNG BÀ: (nói tiếp) Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho.

Can chi phải dụng tình bất trắc.

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

SÙNG ỐNG: Thì mày ngửa lên cho bà ấy xem !

(Thị Kính ngửa mặt rũ rượi)

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng!

THỊ KÍNH: Oan cho con lắm mẹ ơi!

Chàng học khuya mỏi mệt.

Con thấy râu mọc ngược dưới cằm

SÙNG BÀ: Lại còn oan à?

Rõ rành rành mười mắt đều trông.

Phi mặt gái trơ như mặt thớt!

SÙNG ÔNG: Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thật hở bà?

SÙNG BÀ: Úi giời ơi! Chồng với con! Ông chửa mở mắt được ra mà trông kia kìa (trỏ con dao dưới đất).

Lúc nào cũng rượu, lúc nào cũng say.

Ăn nói thì lèm bèm lèm bèm...

SÙNG ÔNG: Thì tôi biết đâu! Tôi cứ tưởng như tôi với bà ngày còn trẻ kia đấy. Tôi thì tôi đồ chừng chỉ là cái chuyện như tôi với bà cái thuở đương thì đấy thôi bà ạ.

SÙNG BÀ: (đay nghiến Sùng ông) Đương với chả thì... (kéo Sùng ông vào phản) Không biết gì thì ông ngồi chết xuống đây này!

SÙNG ÔNG: Ừ thì ngồi!

SÙNG BÀ: Này con kia ! Tam tòng tứ đức nhà mày để ở đâu hử? (nói lệch) Sao mày không sợ gươm trời búa nguyệt,

Cả gan thay cho bụng đàn bà.

Ngựa bất kham thôi về Bổng Báo (4)

Này, bà bảo cho mà hay này : đồng nát thì về Cầu Nôm (5) , con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không ?

Trứng rồng lại nở ra rằng

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

(nói lệch) Này! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc (6)

Mày là con nhà cua ốc

Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai

Chả công đâu bà đánh mắng cho hoài

Gọi Mãng tộc, phó về cho rảnh thôi ông ạ!

Ơ hay! ... Thế ông vẫn ngồi chết ở đấy à?

SÙNG ÔNG: Sao bà bảo tôi ngồi chết dí xuống đây thì tôi đừng ngồi à ?

SÙNG BÀ: Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

SÙNG ÔNG: Ừ thì đi!

THỊ KÍNH: (với Thiện Sĩ) Oan thiếp lắm chàng ơi!

SÙNG BÀ: Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm bảy vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa!

THỊ KÍNH: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

SÙNG BÀ: Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

(Thị Kính chạy theo van xin, Sùng bà dúi tay ngã khuỵu xuống thì có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cổng).

SÙNG ỐNG: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!

MÃNG ÔNG: Đấy, tôi biết ngay mà! Mạ già ruộng ngấu, không cắm cây mạ thì thôi, chứ đã cắm là mọc ngay cây lúa cho mà xem.

SÙNG ÔNG: Ông khoe con ông nữ tắc nữ công nhỉ?

MÃNG ÔNG: Vâng thi cháu đủ nữ tắc nữ công đấy chứ

SÙNG ỐNG: Đây này! (cầm con dao giơ vào mặt Mãng ông) Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!

MÃNG ÔNG: Úi chao Thật thế hở ông?

SÙNG ÔNG: Ông chưa mở mắt ra mà trông đấy à? (chỉ Thị Kính) Đấy, con ông đấy, ông đem về mà dạy bảo. Từ giờ trở đi ông hãy bớt cái mồm mà khoe khoang, nữ tắc với chả nữ công. Về đi!

MÃNG ỐNG: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!

SÙNG ÔNG: Biết này !

(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau than khóc).

MĂNG ÔNG: Con bị! Con ăn ở ra sao mà nên nông nỗi này hở con?

THỊ KÍNH: Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!

MẢNG ỐNG: Oan cho con lắm à? (sử rầu rồi vãn)

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào?

Thôi sự tình về nhà nói cho cha mẹ biết.

Dù oan, ngay, giờ biết kêu ai.

Thôi đứng dậy về cùng cha,

Rồi cha liệu cho con.

(Thị Kính dẫn cha đi một quãng, Mãng ông quay lại)

Về cùng cha, con ơi!

(Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay).

THỊ KÍNH: (hát sử rầu)

Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo (7)

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.

Nghĩ trách mình phận hẩm duyên đi

Cho nên nỗi thế tình run rủi!

(nói thảm) Về cùng cha! Có trở về như vậy

Cũng không sao tránh khỏi tiếng mỉa mai.

Không không phải sống ở đời mới mong tỏ rõ là người đoan chính...

(sử rầu tiếp) Con vọng bái nghiêm từ (8) tôn kính

Con tìm nơi khuất mặt cho xong.

Trách lòng ai nỡ phụ lòng

Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi

Nhật nguyệt rạng soi

Thấu tình chăng nhẽ

Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ

Thay áo quần giả dạng nam nhi

(hát ba than) Áo chít cài khuy

Nay tôi quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành.

Cầu Phật tổ chứng minh.

(Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng, hướng về phía chân trời chớm rạng đông thì màn từ từ khép lại).

(Theo ĐỖ BÌNH TRỊ, HOÀNG HỮU YÊN: Văn tuyển văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, H., 1983)

Chú thích:

Tóm tắt vở chèo:

Vở chèo có thể chia làm ba phần

1. Án giết chồng

Thiện Sĩ, con Sùng ông Sùng bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao ở thủng toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán lên. Cha mẹ chồng đổ riệt cho Thị Kính có ý giết Thiện Sĩ, đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ.

2. Án hoang thai

Bị oan ức nhưng không biết kêu vào đâu, Thị Kính đi tu. Giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp hiệu là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông vốn tính lẳng lơ, say mê Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở, rồi có chửa. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Màu khai cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan tình, bị đuổi ra tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm.

3. Oan tình được giải – Thị Kính lên tòa sen

Trải ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hóa”, được lên tòa sen, trở thành Phật bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

(1) Soi kinh bóng quế: ý nói chăm đọc sách mong được thi đỗ. .

(2) Long vân: ý nói thi cử đỗ đạt (rồng gặp mây).

(3) Chỉ những cuộc tình bất chính (trên bãi sông Bộc, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, trong ruộng dâu là chỗ ngày xưa, trai gái nước Trịnh và nước Vệ hay hẹn hò nhau ra đó để tình tự).

(4) Bổng Báo: tức thôn Bổng Thượng thuộc Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), một nơi đất văn vật thời xưa, xe ngựa dập dìu, người ta thường đưa ngựa bất kham về đây thuần hóa được cả.

(5) Cầu Nôm: thuộc huyện Mỹ Văn (Hưng Yên) ngày nay, có nghề đúc đồng.

(6) Cao môn lệnh tộc: chỉ nơi giàu có, quyền thế.

(7) Sắt cầm tịnh hảo: ý nói tình vợ chồng hòa hợp (sắt, cầm là hai thứ đàn cổ).

(8) Nghiêm từ: cha mẹ.

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Văn bản trên thuộc thể loại:

A. Chèo cổ

B. Chèo bác học

C. Tuồng đồ

D. Tuồng pho

2. Văn bản kể lại sự việc gì?

A. Thị Kính nhổ râu cho chồng

B. Thị Kính với ý định cắt râu mọc ngược cho chồng nhưng bị nghi oan là muốn giết chồng

C. Âm mưu giết chồng của Thị Kính

D. Thị Kinh vô ý cầm dao khiến chồng lầm tưởng rằng nàng có ý định giết chồng

3. Thái độ của Sùng Ông và Sùng Bà trước lời kêu cứu của Thiện Sĩ khác nhau như thế nào?

A. Sùng Bà ngay lập tức hỏi cho ra nhẽ còn Sùng Ông thì lờ đi coi như không có chuyện gì

B. Sùng Bà ngay lập tức trách móc con trai và bênh Thị Kính, Sùng Ông thì thông báo cho thông gia là Mãng Ông đem con gái về

C. Sùng Bà ngay lập tức đổ lỗi, trách cứ và buộc tội con dâu là Thị Kính, Sùng Ông bán tính bán nghi không tin nhưng rồi cũng buộc phải nghe theo Sùng Bà

D. Sùng Bà ngay lập tức đưa Thị Kính về nhà bố mẹ, Sùng Ông thì ra sức van nài vợ để cứu Thị Kính

4. Đoạn nói lệch của Sùng Bà thể hiện được thái độ của nhân vật với Thị Kính như thế nào?

SÙNG BÀ: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bỏ băm vằm sả sích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng!

A. Đay nghiến, mỉa mai, lên án mạnh mẽ hành động cố ý giết chồng của Thị Kính

B. Chia sẻ về đức hạnh của người phụ nữ

C. Tạo không khí rộn ràng, gấp gáp trước sự tình hiện tại

D. Chê bai cách hành xử của Thị Kính

5. Lời hát sử rầu của Thị Kính ở cuối đoạn trích cho thấy điều gì về nàng?

A. Khẳng định sự đoan chính và không muốn trở về khiến cho mẹ xấu hổ, quyết định đi giả nam tu hành

B. Muốn minh oan cho bản thân

C. Khẳng định sự đoan chính, không làm điều hổ thẹn với lương tâm

D. Quyết tâm tu hành

6. Đáp lại những lời kêu oan của Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà đã có hành động gì?

A. Liên tiếp buộc tội Thị Kính

B. Liên tiếp buộc tội Thị Kính và đem đi bêu rếu khắp nơi

C. Đem chuyện này trình báo lên quan trên

D. Liên tiếp buộc tội Thị Kính và trả Thị Kính về nhà Mãng ông

7. Theo em, lí do nào khiến Thị Kính chẳng thể minh oan?

A. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, lời nói của người phụ nữ không có trọng lượng minh oan

B. Do định kiến mẹ chồng nàng dâu

C. Do Thị Kính không tìm được đủ lí do thuyết phục minh oan

D. Do Thị Kính và Thiện Sĩ tình cảm không được tốt đẹp

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Liệt kê và phân tích lời thoại cho thấy được thái độ của Sùng Bà đối với Thị Kính? Theo em, có những lí do khiến Sùng Bà có những lời lẽ và hành động như vậy?

9. Vì sao toàn bộ cuộc đối thoại nỗi oan Thị Kính, Thiện Sĩ lại không nói lời nào hoặc chỉ nói rất ít?

10. Đoạn trích trên đã cho thấy phẩm chất và số phận gì của Thị Kính nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung?

Đáp án:

1. A

2. B

3. C

4. A

5. A

6. D

7. A

8.

- Một số lời thoại của Sùng bà:

+ Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho. Can chi phải dụng tình bất trắc. Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào

+ Ôi chao ơi là mặt! Chém bỏ băm vằm sả sích mặt! Gái say trai lập chí giết chồng!

+ Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

+ Không biết gọi Mãng ông sang đây mà giao giả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

- Nhận xét lời thoại của Sùng Bà: Đầy cay nghiệt, luôn đổ lỗi, chỉ trích, không lắng nghe Thị Kính giải thích mà buộc tội và gán cho nàng án oan

-> Số phận của người phụ nữ không được nói lên tiếng nói để bảo vệ danh dự và phẩm giá của mình.

9. Toàn bộ cuộc đối thoại nỗi oan Thị Kính, Thiện Sĩ lại không nói lời nào hoặc chỉ nói rất ít vì:

- Nhân vật Thiện Sĩ không xuất hiện hay có lời thanh minh cho vợ mình để tô đậm sự thiệt thòi của Thị Kính, không được chồng thấu hiểu, chia sẻ và che chở.

- Thiện Sĩ nghe lời mẹ và cũng tự cho mình quyền gán nỗi oan hại chồng cho Thị Kính.

10.

- Vẻ đẹp phẩm chất: Yêu thương, thủy chung quan tâm chồng, hết lòng vì gia đình nhà chồng.

- Số phận: Chịu nỗi oan ô nhục, bị trả về cha mẹ đẻ, không thể cất lên tiếng minh oan cho bản thân.

Xem thêm các bài viết về định nghĩa và khái niệm môn Văn chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học