Truyện ngắn là gì (chi tiết nhất)

Bài viết Truyện ngắn là gì chi tiết nhất, đầy đủ khái niệm, đặc điểm, cách đọc hiểu & bài tập có đáp án chi tiết giúp bạn nắm vững kiến thức trọng tâm về Truyện ngắn.

Truyện ngắn là gì (chi tiết nhất)

Quảng cáo
Cài đặt app vietjack

1. Khái niệm truyện ngắn

Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyên ngắn bao gồm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn.

2. Đặc điểm của truyện ngắn

- Cốt truyện: thường đơn giản, cô đúc; tập trung xoay quanh một tình huống. Trong đó, các sự kiện trong câu chuyện được sắp xếp theo hướng tập trung vào một vài biến cố chính, dồn nên mâu thuẫn trong một khoảng thời gian ngắn.

- Điểm nhìn ngôi thứ ba (toàn tri, hạn tri) và sự thay đổi điểm nhìn:

Điểm nhìn ngôi thứ ba toàn tri: Tầm hiểu biết của người kể chuyện bao trùm toàn bộ thế giới nhân vật, không bị giới hạn trong cái nhìn của nhân vật nào, thấu suốt tất cả suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật, tất cả mọi thời điểm, địa điểm và sự kiện.

Điểm nhìn ngôi thứ ba hạn tri: Tầm hiểu biết của người kể chuyện chỉ giới hạn trong cái nhìn của một nhân vật trung tâm, chỉ thấu suốt suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật đó và các sự kiện mà nhân vật đó biết.

+ Thay đổi điểm nhìn: Trong nhiều tác phẩm truyện hiện đại, thường có sự di chuyển điểm nhìn kể chuyện, có thể từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ ba, từ ngôi thứ ba hạn tri sang toàn tri, hoặc giữa nhiều ngôi thứ nhất khác nhau. Thủ pháp này có nhiều tác dụng trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả dẫn dắt độc giả vào thế giới tinh thần của nhân vật; quan sát, thể hiện sự việc, con người từ nhiều góc nhìn...

Quảng cáo

- Nhân vật trong truyện ngắn: Truyện ngắn hiện đại thường chỉ có 1 – 2 nhân vật chính – tức nhân vật hiện lên như một chủ thể độc lập, giữ vai trò chủ đạo trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm – được khắc họa qua ngoại hình, hành động đối thoại, độc thoại nội tâm và qua đánh giá của các nhân vật khác cũng như của người kể chuyện.

3. Ví dụ một số truyện ngắn

- Lão Hạc, Chí Phèo, … (Nam Cao).

- Bến quê, Lặng lẽ Sa Pa, … (Nguyễn Minh Châu).

- Làng,.. (Kim Lân)

- ….

4. Cách đọc hiểu một văn bản truyện ngắn

– Đọc nhan đề văn bản, xác định được đề tài của văn bản.

– Tóm tắt nội dung tác phẩm.

– Nhận diện và nêu được tác dụng của ngôi kể.

– Xác định được cốt truyện, tình huống truyện, chi tiết truyện.

– Phân tích được nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính thông qua ngoại hình, hành động, cử chỉ, lời nói, suy nghĩ,…

– Nhận xét, đánh giá được đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện.

– Nêu ý nghĩa, bài học, thông điệp rút ra từ truyện, liên hệ bản thân.

Quảng cáo

– Lưu ý:

+ Đọc kĩ văn bản để nắm được mối quan hệ giữa các sự kiện chính và giữa các nhân vật.

+ Đặc biệt quan tâm đến những tìm tòi đổi mới trong nghệ thuật tự sự của tác giả.

+ Tìm hiểu các thông tin ngoài văn bản giúp hiểu sâu hơn về tác phẩm: những vấn đề trung tâm của đời sống xã hội, đặc điểm của văn học giai đoạn tác phẩm ra đời,…

5. Một số bài tập liên quan đến thể loại truyện ngắn

5.1. Trắc nghiệm

Câu 1: Dòng nào sau đây nói đúng đặc điểm cơ bản của truyện ngắn?

A. Là các câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa; có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chương.

B. Là các câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa; có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, ít nhân vật.

C. Là các câu chuyện kể bằng văn vần và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa; có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang.

D. Là các câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa; có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, một nhân vật.

Đáp án: B

Câu 2: Đề tài của truyện ngắn là:

A. Điều chứa đựng trong kết thúc của truyện.

B. Phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm.

Quảng cáo

C. Điều tác giả muốn nói.

D. Ý nghĩa của sự việc đặc sắc nhất.

Đáp án: B

Câu 3: Chủ đề của truyện ngắn được thể hiện qua:

A. Nội dung được phản ánh trong tác phẩm.

B. Các sự việc được nói tới.

C. Toát lên từ nội dung được phản ánh của tác phẩm.

D. Thể hiện ở nhan đề.

Đáp án: C

Câu 4. Điểm nhìn toàn tri trong nghệ thuật kể chuyện là:

A. Người kể chuyện hóa thân vào nhân vật chính để biết hết mọi chuyện.

B. Người kể chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả, biết rõ hành động, suy nghĩ cảm giác của các nhân vật.

C. Là người kể chuyện mượn quan điểm, thái độ cảm giác của một nhân vật nào đó.

D. Người kể chuyện là quan sát viên.

Đáp án: B

Câu 5: Các sự việc trong truyện ngắn được sắp xếp như thế nào?

A. Theo trình tự thời gian.

B. Theo ý đồ nghệ thuật của tác giả.

C. Theo trình tự không gian.

D. Cần đảo trình tự 2 sự kiện chính.

Đáp án: B

Câu 6: Điều làm nên sức hấp dẫn, sự cuốn hút của truyện

A. Tên nhân vật, ngôi kể.

B. Tình huống truyện, nhan đề, cách kết thúc truyện.

C. Tình huống truyện, nhan đề.

D. Tên tuổi của tác giả.

Đáp án: B

Câu 7. Dòng nào nói lên cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm văn học – truyện ngắn?

A. Là tình cảm, thái độ tác giả dành cho hệ thống nhân vật chính diện.

B. Là trạng thái tình cảm ngợi ca dâng lên mãnh liệt trải dài trong toàn tác phẩm, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc.

C. Là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật khi tác giả miêu tả bối cảnh, sự việc chính.

D. Là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng, sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm.

Đáp án: D

Câu 8: Truyện ngắn có kết thúc mở là:

A. Sự việc cuối không ai ngờ tới.

B. Sự việc cuối cùng gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ.

C. Nhân vật chính thay đổi tính cách.

D. Người kể chuyện nhận xét về nhân vật chính.

Đáp án: B

Câu 9: Tính mở, kích thích tư duy độc giả của truyện ngắn thường thể hiện ở yếu tố nào?

A. Độc giả tham gia hoàn thành tác phẩm, sáng tạo, dự đoán sự việc kết thúc.

B. Dấu ba chấm trong trong tác phẩm.

C. Không kể về lai lịch nhân vật.

D. Tác giả không nhận xét về nhân vật.

Đáp án: A

Câu 10: “Nêu những trải nghiệm trong cuộc sống giúp bản thân hiểu thêm về nhân vật, sự việc trong tác phẩm văn học” có nghĩa là:

A. Nêu điều kiện em được tiếp xúc với tác phẩm, nhà văn.

B. Nêu hoàn cảnh em được tranh luận với các bạn về tác phẩm.

C. Nếu điều em biết được do đọc sách/ được người lớn hướng dẫn/ tự tìm hiểu/ trải qua… khiến em hiểu sâu hơn về nhân vật, sự việc trong tác phẩm văn học.

C. Kể về lần em hóa thân vào nhân vật/rơi vào cảnh ngộ giống nhân vật.

Đáp án: C

5.2. Tự luận

Câu 1: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện yêu cầu:

Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng có một vườn hoa là một việc dễ dàng, nhưng đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi hoa làm gì cho thêm tội

Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, đại kiều, Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v. v… Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:

- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm, ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.

Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và dò đẫy, hoa có khi đậu được đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.

Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.

Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.

Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ1 già đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo. Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế, mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:

- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lại chậu Mặc lan thôi.

Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất vui sướng vì họ tin đã làm toại được sở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào dò lan đen, cụ Kép lại xuýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình.

Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo mới nguội.

Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa. Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao thừa. Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời. Năm nay, trời giao thừa lành. Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa. Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:

- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng, treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.

Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:

- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.

- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy nút lại không có rượu bay!

Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.

Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối. Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.

Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây […] Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.

(Trích Hương Cuội, Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, NXB Văn học 2012)

1. Câu chuyện trong đoạn trích trên được kể bằng lời của ai?

A. Lời của nhân vật cụ Kép.

B. Lời của người bõ già.

C. Lời của người con cả.

D. Lời của người kể chuyện ngôi thứ ba số ít.

2. Câu chuyện trong đoạn trích trên lấy bối cảnh thời gian nào?

A. Những năm đầu thế kỷ XX.

B. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

C. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954.

D. Sau khi thống nhất đất nước 1975.

3. Nhân vật cụ Kép trong đoạn trích trên thuộc lớp người nào?

A. Trí thức Tây học.

B. Nhà nho cuối mùa.

C. Công chức thời thuộc Pháp.

D. Nông dân.

4. Tại sao vườn nhà cụ Kép lại thiếu loại lan Bạch Ngọc?

A. Vì đó là giống lan đắt.

B. Vì đó là giống lan hiếm.

C. Vì đó là giống lan khó chăm.

D. Vì đó là giống lan không đẹp.

5. Theo cụ Kép, việc ứng xử với hoa như thế nào mới xứng với đạo của người tài tử?

A. Mua thật nhiều hoa lan về để trồng và chăm sóc trong vườn.

B. Trồng hoa ở giữa vườn và để cho hoa mọc tự do.

C. Có thời giờ chăm sóc và đối đãi với hoa bằng đạo chí thành.

D. Trồng hoa ở bất cứ đâu trong khuôn viên nhà để hoa mọc tự nhiên.

6. Cụm từ nào sau đây nêu đúng nếp sống của cụ Kép?

A. Điều độ, đạm bạc.

B. Thanh cao, nho nhã.

C. Chăm chỉ, chịu khó.

D. Khắc khổ, nhẫn nhịn.

7. Dòng nào sau đây nêu đúng chủ đề chính của đoạn trích?

A. Đoạn trích ca ngợi thú chơi lan tao nhã như một vẻ đẹp xưa cũ còn vang bóng.

B. Đoạn tríc ca ngợi những con người dám từ bỏ công danh để sống tự do tự tại.

C. Đoạn trích thể hiện nỗi lo lắng của tác giả về sự mai một của những giống lan quý.

D. Đoạn trích thể hiện những dự cam lo âu về sự suy thoái của đạo đức xã hội.

8. Qua nhân vật cụ Kép, tác giả thể hiện thái độ như thế nào đối với xã hội “Tây Tàu nhố nhăng” đương thời?

9. Theo bạn, có nên khuyến khích lối sống như cụ Kép trong xã hội ngày nay không? Vì sao?

10. Chi tiết nào trong đoạn trích để lại ấn tượng sâu sắc nhất với bạn? Vì sao?

Đáp án:

1. D

2. A

3. B

4. C

5. C

6. B

7. A

8. Qua nhân vật cụ Kép, tác giả thể hiện thái độ bất hòa với xã hội “Tây Tàu nhố nhăng” đương thời; đồng thời ngợi ca những giá trị truyền thống của dân tộc.

9. HS lựa chọn nên hoặc không nên và giải thích:

- Theo em, nên khuyến khích lối sống như cụ Kép vì: Xã hội ngày nay với nhiều cặm bẫy khiên cho con người không làm chủ được bản thân. Lối sống của cụ Kép giúp tránh được những ồn ào, thói hư tật xấu của xã hội, hòa mình với thiên nhiên, gắn bó và thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên.

- Theo em, không nên khuyến khích lối sống của cụ Kép trong xã hội ngày nay. Bởi lẽ, việc làm này sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực cho bản thân và cộng đồng.

+ Lối sống của cụ Kép khiến con người trở nên lười biếng, ỷ lại vào người khác. Khi được mọi người giúp đỡ từ A đến Z, còn người sẽ dần đáng mất đi ý chí tự lập, không còn muốn nỗ lực phấn đấu để đạt được thành công. Điều này sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá nhân cũng như toàn xã hội

+ Lối sống của cụ Kép tạo ra một môi trường sống thụ động, thiếu sáng tạo. khi chỉ biết dựa dẫm vào người khác, con người sẽ không có cơ hội để rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo. Điều này khiến cho xã hội trở nên trì trệ, lạc hậu.

+ Lối sống của cụ  Kép góp phần tạo nên một xã hội bất bình đẳng. Khi một số người được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của người khác mà không phải đóng góp gì, thì sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Điều này sẽ gây ra những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của đất nước.

10. Chi tiết nào trong đoạn trích để lại ấn tượng sâu sắc nhất với em là chi tiết cụ Kép trồng đủ loại hoa lan, chi tiết cụ Kép chuẩn bị đón tết…

- Vì những chi tiết đó đã ca ngợi vẻ đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc: Uống rượu, ngâm thơ, thưởng hoa, đặc biệt là thú làm kẹo hương cuội vào dịp Tết cổ truyền. Ca ngợi những nho sĩ thanh cao, có tâm hồn và thú vui tao nhã luôn có ý thức trong việc gìn giữ truyền lại cho con cháu vẻ đẹp truyền thống của dân tộc.

Câu 2: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?

- Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ: "Chân dung chiến sĩ giải phóng". Thật là danh tiếng quá!

- Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức "chân dung chiến sĩ giải phóng" đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm!

"A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả... Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!".

Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:

- Bác đến cắt tóc?

- Vâng.

- Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.

Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.

- Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?

Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:

- Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.

- Anh ấy nói với chị thế?

- Vâng.

- Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ...

- Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?

- Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?

- Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.

- Vì sao?

- Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài...

- Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?

- Từ 69.

- Từ tháng mấy?

- Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.

Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?

[…] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:

- Thưa ông đến cắt tóc?

- Vâng ạ!

Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.

Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.

- Mời bác ngồi!

Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.

- Bác vẫn cắt như cũ?

- Vâng.

"Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?"

"Phải".

"Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?"

"Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội".

"Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!"

"Không".

"Tôi có phải cút khỏi đây không?"

"Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!"

Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.

Bây giờ thì cái tác phẩm mới của tôi đã hoàn thành. Tôi đang đối mặt với chính mình, để viết những dòng này, như những lời chú giải cho một tác phẩm hội họa thể hiện một cái mặt người rất lớn: những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: dưới cằm và hai bên mép phủ kín bọt xà phòng. Không trông rõ miệng, chỉ thấy một vệt mầu đen lờ mờ nổi bồng bềnh trên những đám bọt xà phòng. Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.

(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,1983)

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?

A. Ngôi thứ nhất

B. Ngôi thứ hai

C. Ngôi thứ ba

D. Ngôi thứ hai và ngôi thứ ba

2. Người kể chuyện chủ yếu trần thuật theo điểm nhìn:

A. Điểm nhìn của tác giả, điểm nhìn bên ngoài chiếm ưu thế

B. Điểm nhìn của nhân vật tôi, điểm nhìn bên trong chiếm ưu thế

C. Điểm nhìn của anh thợ cắt tóc, điểm nhìn bên trong chiếm ưu thế

D. Điểm nhìn của nhân vật tôi, điểm nhìn bên trong chiếm ưu thế

3. Bức tranh của người họa sĩ vẽ có tên là gì?

A. “Chân dung người chiến sĩ”

B. “Chân dung anh bộ đội cụ Hồ”

C. “Chân dung người chiến sĩ quả cảm”

D. “Chân dung chiến sĩ giải phóng"

4. Từ “tranh sơn mài” được định nghĩa là: chất liệu hội hoạ, trong và bóng, chế từ nhựa sơn, thường dùng vẽ tranh. Cách giải thích nghĩa của từ thuộc cách giải thích nào?

A. Phân tích nội dung nghĩa của từ

B. Sử dụng từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa

C. Nêu định nghĩa

D. Phân tích các thành tố cấu tạo

5. Vì sao bà mẹ (bà cụ) bị mù lòa cả hai mắt?

A. Bà cụ ốm một trận rất nặng rồi hai mắt lòa đi.

B. Bà cụ khóc thương tới lòa hai mắt khi nghe tin con trai hy sinh.

C. Bà cụ bị mù lòa hai mắt bẩm sinh.

D. Bà cụ gặp tai nạn khiến hai mắt bị mù lòa.

6. Trên cương vị là một người họa sĩ, nhân vật “tôi” là người như thế nào?

A. Là một nghệ sĩ tài năng, anh ta vốn nghiêm túc với nghệ thuật và công việc.

B. Là một nghệ sĩ nổi tiếng, với mong muốn vẽ được bức tranh để đời.

C. Là nghệ sĩ vẽ tranh kém nổi, sống nhờ nghề vẽ tranh.

D. Là nghệ sĩ tài ba, được học qua nhiều trường lớp và các họa sĩ nổi tiếng.

7. Sau khi biết lí do mẹ của anh thợ cắt tóc bị mù, nhân vật “tôi” có thái độ như thế nào?

A. Nhận ra lỗi lầm của bản thân và cảm thấy day dứt, trăn trở.

B. Chưa nhận ra lỗi lầm nhưng cảm thấy buồn thương.

C. Cảm thấy lo lắng, sợ hãi.

D. Cảm thấy hoảng hốt, hồi hộp.

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Phân tích đặc điểm của người kể chuyện trong truyện (ngôi kể, quan hệ và thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật trong truyện, lời kể chuyện và lời nhân vật trong truyện có gì đặc biệt?)

9. Em hiểu như thế nào về lời đề nghị rụt rè của anh thợ cắt tóc trong quá khứ được gợi lại từ dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.

10. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 7 - 9 câu) trình bày suy nghĩ của em về hệ thống điểm nhìn trong văn bản và cho biết điểm nhìn đó có tác dụng hé lộ điều gì trong tâm lí nhân vật

Đáp án:

1. A

2. B

3. D

4. A

5. B

6. A

7. A

8.

- Ngôi kể: Ngội thứ nhất – xưng tôi

- Quan hệ và thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật trong truyện: Nhân tôi là người nghệ sĩ từng vẽ bức tranh chàng trai là bộ đội lúc bấy giờ với thông tin anh bộ đội đã mất. Ngày giải phóng, người nghệ sĩ ghé quán cắt tóc đúng quán anh bộ đội ngày xưa mở ra -> Mối quan hệ giữa nhân vật tôi và anh thợ cắt tóc, người bộ đội ngày xưa chính là sự áy náy, khó xử khi biết mình chính là một trong những lí do khiến mẹ anh khóc mù hai mắt vì thương nhớ con (tưởng con đã hi sinh)

- Lời kể chuyện và lời nhân vật trong truyện có điều đặc biệt: Người kể chuyện cũng chính là nhân vật tôi, bên cạnh những đoạn đối thoại giữa nhân vật tôi với anh thợ cắt tóc và vợ anh thợ cắt tóc. Còn là những đoạn tưởng tượng ra lời đối thoại có phần trách móc của anh thợ cắt tóc với chính mình -> Cho thấy được sự dằn vặt trong tâm trí người nghệ sĩ khi biết có thể bản thân chính là nguyên nhân khiến mẹ anh thợ cắt tóc bị mù.

9. Lời đề nghị rụt rè của anh thợ cắt tóc trong quá khứ được gợi lại từ dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình, được hiểu:

- Sự cẩn trọng trước những điều mình làm

- Không nên vì những điều ích kỉ, vị kỉ cá nhân mà có thể gây hại tới người khác

- Nhìn nhận lại chính bản thân mình để cố gắng thay đổi và hoàn thiện ngày một tốt hơn.

10. Hệ thống điểm nhìn: chủ yếu sử dụng điểm nhìn "bên trong", điểm nhìn của nhân vật - người trong cuộc. Nhân vật cùng lúc sắm cả hai vai: người kể chuyện và nhân vật truyện. Điều này cho phép nhà văn  bộc lộ tư tưởng thông qua suy nghĩ, độc thoại nội tâm nhân vật. Trong Bức tranh, người kể chuyện chính là nhân vật tôi - họa sỹ và ngay cách mở đầu truyện, người đọc đã cảm nhận về một câu chuyện "có tính vấn đề, sẽ có trao đổi, tranh luận, bàn luận ở đây: Tôi là họa sĩ. Tôi không phải một người viết văn. Tôi phải tự giới thiệu như vậy ngay từ đầu, không thể có ý muốn mong chờ hay cầu khẩn nơi các bạn đọc một thái độ rộng lượng.". Và như chính nhân vật họa sỹ người viết tự bộc bạch, câu chuyện là "những lời tự thú. Cuộc tự thú với lương tâm này không chỉ được biểu tượng bảng hình ảnh bức chân dung tự họa với khuôn mặt "một nửa cải dầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn và một nửa mái tóc đã cắt thoạt trông như một phần bộ óc måu xám vừa bị mổ phanh ra. Khuôn mặt của người khách: một cặp mắt mở to nhìn trừng trừng vào lương ánh sáng, một cái nhìn khắc khoải, bồn chồn, kinh ngạc và đầy nghiêm khắc. Phần bên dưới của khuôn măt như vẫn dang được dấu kín bởi bọt xà phòng..." mà còn bộc lộ xuyên suốt thiên truyện bằng một giọng kể đầy biểu cảm.

Câu 3: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (NGUYỄN THI)

(Trích)

(Lược phần đầu: Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ – nguy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe doạ, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chủ Nam, và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những đau thương mất mát nặng nề do tội ác của Mĩ – nguy gây ra đối với gia đình Việt đều được chủ Nam ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.

Việt và Chiến hàng hát tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là cậu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị, đặc biệt là với tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở anh luôn luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu. Anh quyết lập được nhiều chiến công để cùng chị Chiến trả thù cho ba má. Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đua anh trở về với những kĩ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,...)

Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ lại được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuống lên cho Việt ăn... Nhưng mấy giọt mưa lất phất trên cổ làm Việt choàng tỉnh hẳn. Một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống chạy từ cổ Việt, lan dài cho tới ngón chân. Việt có một mình ở đây thôi ư? Câu hỏi bật ra trong đầu Việt rồi dội lại trong từng chân lông kẻ tóc. Cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất, trong đêm thứ hai này, khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi

trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng Út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mua ngoài vàm sông", cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc...

Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai... Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lăng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng môi và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hỏi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm... chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra... Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ...

Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong..

(Truyện và kí, NXB Văn học Giải phóng, 1978)

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?

A. Ngôi thứ nhất B. Ngôi thứ hai

C. Ngôi thứ ba D. Ngôi thứ hai và ngôi thứ ba

2. Người kể chuyện chủ yếu trần thuật theo điểm nhìn:

A. Điểm nhìn của tác giả

B. Điểm nhìn của chị Chiến

C. Điểm nhìn của má

3. Trong những câu văn sau, câu văn nào cho thấy được cảm xúc xuất phát từ điểm nhìn của nhân vật Việt:

A. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ.

B. Ước gì bây giờ lại được gặp má.

C. Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo

D. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt…Việt nằm thở dốc

4. Hiệu quả của biện pháp tu từ so sánh trong câu “Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng môi và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hỏi Đồng khởi.” là gì?

A. Gợi lên cảm giác phấn khích và khát khao chiến đấu tột cùng trong nhân vật Việt lúc này.

B. Gợi lên sự dũng cảm của nhân vật Việt khi tiếng súng trở thành những âm thanh quen thuộc và nhân vật sẵn sàng đối mặt với những khó khăn và thử thách.

C. Gợi lên những âm thanh quen thuộc gắn liền với nhân vật Việt khi một mình bị thương nặng giữa chiến trường, đồng thời gợi cảm giác sống trong tinh thần quật khởi của đồng bào miền Nam trong những ngày đánh Mỹ

D. Gợi lên những âm thanh quen thuộc gắn liền với nhân vật Việt khi đang bị thương ở chiến trường, đồng thời cho thấy sự dũng cảm của nhân vật.

5. Tại sao Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ đối với nhân vật Việt?

A. Vì đây là âm thanh tiếng súng mà đồng đội bắn. Nó gọi Việt phải bước tiếp để sống để trả thù quân địch. Tiếng súng xung trận đã tiếp thêm sức mạnh cho tiếng gọi Việt quay trở lại sự sống.

B. Vì đây là tiếng súng mà Việt đã quá quen thuộc và thôi thúc Việt khỏe mạnh, chiến đấu

C. Vì Việt nghe tiếng súng nhưng không hề sợ hãi cái chết mà chỉ có tinh thần chiến đấu.

D. Vì đây là tiêng súng đã hạ gục Việt và Việt khao khát vực dậy để đánh bại kẻ thù.

6. Từ láy “văng vẳng” được định nghĩa: Vọng lại từ xa nhưng nghe không thật rõ lắm. Cách giải thích nghĩa của từ đó là:

A. Phân tích nội dung nghĩa của từ

B. Sử dụng từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa

C. Nêu định nghĩa

D. Phân tích các thành tố cấu tạo

7. Suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật Việt được thể hiện trong đoạn “Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống.” là gì?

A. Mơ hồ, ảo ảnh không biết là mơ hay thật

B. Hoang mang, lo sợ không biết được tương lai

C. Quyết tâm vùng dậy để chiến đấu

D. Liều mình, bất chấp sự sống và cái chết

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Hãy xác định những câu văn là lời của nhân vật Việt, tìm hiểu tâm trạng của việt bộc lộ trong những câu văn đó.

9. Qua văn bản, em hiểu gì về nhân vật Việt?

10. Bằng việc tìm hiểu về cảm xúc của nhân vật Việt trước khó khăn, kết hợp với hiểu biết xã hội của em, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 câu) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề: Bản lĩnh một người được thể hiện rõ nhất ở thái độ của họ khi đối mặt với khó khăn

Đáp án:

1. C

2. D

3. B

4. C

5. A

6. A

7. C

8.

- Những câu văn là lời của nhân vật Việt:

+ “Rõ ràng đây không phải là tiếng pháo lễnh lãng của giặc.”

+ “Đúng súng của quân ta rồi!” · “Anh Tánh chắc chắn ở đó, đơn vị của mình cũng ở đó.” · “Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi!”

+ “Đó, lại tiếng hụp hùm…chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy.” · “Tiếng súng nghe thấy mà thân thiết và vui lạ.”

+ “Những khuôn mặt anh em đồng đội mình lại hiện ra…”

+ “Cái cằm nhọn hoắt nhìn ra của anh Tánh, nụ cười và cùng với cái nheo mắt của anh Công mỗi lần mà anh động viên Việt tiến lên… Các anh chờ Việt một chút.

- Tâm trạng nhân vật Việt phấp phỏng, hồi hộp cùng với mong chờ, niềm vui sướng và hân hoan khi Việt phát hiện ra âm thanh tiếng súng quen thuộc của những người anh em và đồng đội mình.

9. Cảm nhận về nhân vật Việt:

- Việt là một người lính, một người anh hùng thời ông cha ta kháng chiến chống Mỹ kết hợp tất cả những phẩm chất của một người lính cùng với tính cách gan dạ, dũng cảm, ngoan cường, dũng cảm và không sợ hãi, khuất phục trước nghịch cảnh: khi mất đơn vị, bị thương rất nặng nhưng nhân vật người chiến sĩ anh hùng Việt vẫn bình tĩnh, lạc quan và luôn trong tư thế chiến đấu với kẻ địch để bảo vệ Tổ quốc mình.

- Hình ảnh người thương binh vẫn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng đã thể hiện khí chất anh hùng của nhân vật mà tác giả muốn khắc họa. Nhân vật người chiến sĩ bị thương Việt là một gương mặt tiêu biểu của lớp thanh niên thời chống Mỹ, tham gia kháng chiến bằng tất cả nhiệt huyết, nhiệt huyết của tuổi trẻ không ngại gian khổ, ngoan cường và không sợ chết hết lòng vì nhân dân, Tổ quốc và luôn quan tâm đến những người anh em đồng đội luôn sát cánh bên mình.

10.

Bản lĩnh một người được thể hiện rõ nhất ở thái độ của họ khi đối mặt với khó khăn. Thật vậy, bản lĩnh của một con người là sự dũng cảm, là niềm tin, dũng khí, sự tự tin vào bản thân để có thể sẵn sàng giải quyết, đưa ra quyết định và đối mặt với những vấn đề trong cuộc sống. Khi con người được đặt vào tình huống khó khăn, thái độ của họ sẽ phản ánh người đó có bản lĩnh hay không. Một người bản lĩnh còn chưa nhiều thì chắc chắn sẽ hoang mang, bỏ cuộc ngay lập tức. Tuy nhiên, khi đứng trước khó khăn, người có bản lĩnh sẽ có thái độ sẵn sàng dám đối mặt, tìm ra cách giải quyết và vượt qua được những khó khăn ấy. Đồng thời, khi đối mặt với thử thách, trực quan của người có bản lĩnh sẽ vô cùng sắc bén để giúp họ đưa ra được lựa chọn đúng đắn và sáng suốt. Chẳng những thế, thái độ tự tin cùng với duy trì sức mạnh nội tại cũng được thể hiện ở người có bản lĩnh. Vì thế, bản lĩnh là yếu tố bắt buộc phải có để luôn giữ được lí trí và không ngừng tiến về phía trước dù gặp khó khăn lớn đến nhường nào. Tuy nhiên, có bản lĩnh khác với sự ngông cuồng, ếch ngồi đáy giếng. Tóm lại, bản lĩnh chính là chìa khóa, là nguồn động lực đến từ bên trong thúc đẩy con người tiến về phía trước. 

Câu 4: Đọc văn bản sau:

MÒ SÂM PANH (NAM CAO)

Chú bếp Tư rất thận trọng về vấn đề giữ vệ sinh. Ông thường nói rằng: Khí hậu ở đây chẳng được lành; những người chưa quen với thủy thổ miền nhiệt đới, đến đây mà chẳng biết giữ thân, khó khỏi chết vì nguy hiểm ấy truyền nhiễm phần nhiều do nước bẩn. Bởi vậy nước ăn của ông phải coi giữ như thế nào cho thật sạch. Cái bể nước của ông, ông coi quý gần bằng vợ ông. Mà có lẽ còn quý hơn vợ ông nữa. Bởi vì vợ ông ông có thể để người khác bắt tay, chứ bể nước mà đứa nào dám nhúng tay bẩn hay cái "sô" bẩn vào thì cứ liệu cái thần hồn với ông.

Ở nhà chủ, bếp Tư thích nhất cái bể nước ăn này. Nó to bằng cả một căn nhà rộng, nước mưa ở trên các mái nhà theo hai cái ống máng mà trút xuống. Mặt bể bưng kín mít, trừ một máng vuông, mỗi bể chừng một thước, có nắp kín như nắp cống. Những ngày nghỉ vợ chồng ông chủ về Hà nội, thằng Tề con bác bếp vẫn đậy nắp bể cho thật kín rồi trèo lên mặt bể, co một chân lên bắt chước Lã Bố đi bài tẩu hoặc nhảy huỳnh huỵch để bắt chước Võ Tòng sát tẩu. Cái mặt bể toàn xi măng cốt sắt, bốn mươi thằng Tề nhảy cũng không việc gì.

Tề là con một bác Tư. Mẹ nó chết mới xong tang. Bố nó tính hiền lành nên rất yêu con. Chẳng như những bồi bếp khác, nay vợ này, mai vợ khác, hoặc nhân tình nhân ngãi với bọn cô đầu, nhà thổ. Vợ chết quá ba năm rồi mà nghĩ đến lúc nào bác ta vẫn còn thương. Có khi đang ngồi bác tự nhiên khóc hu hu. Hỏi bác thì bác bảo: cũng ngày này năm nọ, bác xin được phép chủ về quê ra đón vợ ra ở đây luôn với bác, thế mà bây giờ vợ bác đã nỡ bỏ bác mà đi cho đành! Chẳng ngày rằm, mùng một nào bác không thắp hương cúng vợ. Cúng xong bác rơm rớm nước mắt, thở dài thở ngắn. Tề thấy thế cũng thương cha vô cùng.

Chỉ thương xuông cũng không thể gọi là thương. Cái lối thương để bụng vô ích lắm. Phải tìm cách tỏ lòng thương ra ngoài mới được. Nghĩa là phải kính mến nghe lời, giúp đỡ. Thầy giáo Tề bảo thế. Cũng vừa mới bảo lúc nãy thôi, khi giảng nghĩa bài luân lý. Bởi vậy, cắp sách về đến nhà trông thấy bố, Tề nhớ lại. Và Tề có ý nhìn xem bố làm gì. Làm gì? Bác Tư đang vắt cái bụng lên thành bể, hai chân đeo lủng lẳng ở bên ngoài, phần trên người đang buông thõng xuống ở bên trong. Không có lý bác gội đầu bằng cách ấy. Tề im im đứng đợi... Bỗng hai cái chân tụt xuống, bác bếp Tư rút đầu ra. Và bác giật mình đánh thót. Ấy là bác thoáng trông thấy có người đứng cạnh mà không biết người ấy là Tề. Tề mỉm cười, khẽ hỏi.

Bác Tư ấp úng một lát rồi mới nói ra lời được.

- À! Mày... mày đấy à!

Bác nhe những cái răng đen lờ lờ ra cười khì khì. Bởi thật thà thì trống ngực bác ta còn đập. Bác mới hơi định thần.

Tề hối hận vì đã làm cho cha hoảng sợ. Nó nhìn cha, ái ngại. Cha nó bảo :

- Mẹ nó! Tao đánh rơi chai " sâm banh " vào trong này rồi!

- Thì thầy thử thò tay vào mà quờ xem.

Có được chó người ta đấy! đầu ngón tay mới chỉ hơi nhúng nước.

- Thế làm sao được?

- Vậy mới rầy rà chứ! Lát nữa không có rượu uống thì bỏ cha!

Tề nghĩ ngợi rồi nói nhỏ:

- Hay để con lội vào?

Bác Tư lại nhe răng ra, khì khì:

- Có được chó!

- Được.

- Nhưng ghét mày nó ra, bẩn nước thì có mà vất đi.

- Không, thế này chứ lỵ! Con lấy xà phòng tắm rồi rửa chân thật sạch, rồi mới vào trong bể.

Thằng oắt này ranh thật. Nó có tài biến báo. Bác Tư nhìn con, ra dáng phục. Nhưng bác vẫn chưa nhất định. Răng bác vẫn nhe ra để cười một cái cười do dự. Đây là một kẻ nhút nhát đang bị người ta xui làm liều nhưng Tề đã quyết. Nó chạy tọt vào nhà để cất sách vở và cởi quần, cởi áo. Một lát sau, nó trần truồng chạy ra.

- Con tắm nhé !

- Nhưng mà thôi, con ạ. Nhỡ bà ấy biết.

Bà ấy là bà chủ. Tề nhìn lên gác, hỏi:

- Bà ấy thức hay ngủ?

- Ngủ, nhưng ngộ bà ấy dậy?...

- Không sợ! Thầy lên đóng cái cửa ở đầu cầu thang lại. Đóng lần ngoài, như vậy bà ấy có dậy cũng không xuống được. Hễ bà ấy gọi thì con ra , chạy vào nhà, ta đóng cửa lại rồi thầy hãy lên mở cửa cho bà ấy.

Sau mấy phút do dự nữa, bác Tư đành nghe con vậy. Cái mẹo của nó được đem ra thi hành.

Tề tắm rửa xong rồi, bác Tư cẩn thận giội cho con thật sạch. Rồi bác nhấc nó lên , từ từ thả vào trong bể. Thằng bé thấy cái trò ngộ nghĩnh, cười hi hí. Nó nghĩ đến cuộc bơi lặn trong cái hồ kín như hang này.

- Khéo nhé! sâu lắm đấy !

- Được, con bơi giỏi lắm. Thầy cứ buông.

Tề rơi đánh thóm. Thì bỗng cửa ngoài lịch kịch rồi có tiếng giày tây cồm cộp đi vào.

- Chết rồi ông ấy về!

Bác Tư kêu lên, hoảng hồn. Bởi vì bác sơ ý, mới nghĩ đến việc ngăn bà chủ mà quên ông chủ. Giờ này tan sở. Bác chưa kịp cài then cửa ngoài, bác giục Tề:

- Ra đi! Ra đi!

Nhưng sao kịp? Ông ấy đã tiến vào đến sân. Bác Tư đứng thẳng người lên. Bác hóa ra tượng đá. Ông chủ nhận thấy, sinh ngờ vực. Ông nhìn vào mắt bác. Bác thấy chân tay bủn rủn , hơi thở gần bị tắc. Giấp luôn mấy tiếng bà chủ ở trên gác gọi :

- Tư! Tư!

- Bà đầm!

- La porte! La porte! (cái cửa! cái cửa!)

Và tay bà đập vào cái cửa kêu thình thịch. Bà vừa đập vừa nói một tràng những tiếng gì choe choé. Bác Tư không nghe kịp nhưng cũng hiểu thế là bà bắt. Bác cuống quít. Nhất là mắt ông chủ vẫn trừng trừng nhìn bá, nghiêm khắc và chế nhạo. Ông hất hàm.

Bác Tư cúi đầu bối rối. Ông đoán ngay là bác đang làm một việc gì vụng trộm. Ăn cắp đồ chẳng hạn. Ông nhìn chung quanh bác. Không có đồ gì cả. Ông nhìn cái cửa buồng của bác. Cánh cửa buồng hé mở. Ông mỉm cười. Bởi vì ông tưởng đã đoán được cái việc dấu giếm của người bếp hiền lành ấy. Muốn cuộc gì ông cũng cuộc. Thế chết thế nào cũng có, một con gái trong cái buồng nhỏ kia. Một cố gái đang luống cuống với những áo quần vắt trên thành giường. Cái này không phải một tội. Khi vợ người ta chết đã ba năm và mấy tháng!... Nhưng thấy bác bếp tỏ ra sợ hãi, ông muốn đùa một chút. Ông nói to lên bảo vợ :

- Đợi một tí. Tôi mở cho.

Bà vợ rú lên:

- Ồ! Vậy ra mình đấy ư?

- Ừ, tôi đây! Tôi lên giờ.

Và ông cố chắp nối mấy tiếng thật rõ rệt, cho người bếp hiểu :

- Moi oublier Innettes bureau. Lunette (ông vừa nhắc lại tiếng ấy vừa lấy ngón tay trỏ chung quanh mắt để vẽ hình cái kính) biếc?

- Uẩy xừ!

- Va chercher (đi tìm).

- Uẩy xừ.

Tuy mồm "uẩy "mà bác Tư vẫn không nhúc nhích. Ông chủ tưởng người bếp của ông không hiểu, ông lại nói, lại ra hiệu lại. Rồi lại nói:

- Biếc?

Thì có gì mà chả biết? Tiếng tây bác Tư đã thạo.Ông nói thế là muốn bảo: Ông để quên cái kính ở sở và sai bác đi lấy về. Hiểu lắm, nhưng còn thằng Tề trong cái bể?... Ông chủ giục:

- A lê! Maoo!

Mồm nói, tay ông nắm vai bác mà đẩy ra phía cửa.

- Uẩy xừ!

Bác đậy vội cái nắp bể lại để ông khỏi thấy, rồi chạy đi. Ông nhìn theo mỉm cười. Ông định cho bác chạy một tua bở hơi tai để ông có thì giờ chạy vào buồng bác. Ông sẽ nắm cổ người con gái kéo ra. Ông sẽ đeo cái kính của ông vào mắt y, rồi bắt y lên giường ngồi chồm hổm như một pho tượng khỏa thân bằng đá trắng. Để người bếp của ông lúc giở về trông thấy y mà cười. Mà chịu rằng ông chủ của bác ma-lanh.

Nhưng ông cụt hứng ngay. Bởi vì buồng bác Tư trống rỗng. Không con gái. Không dấu vết một cuộc ái ân vụng trộm. Ông văng tục một tiếng rồi chạy lên với vợ.

Một lúc lâu sau, bác bếp về, nét mặt băn khoăn: bởi vì bác không tìm thấy kính. Đó không phải là lỗi bác. Nhưng rất có thể rằng ông chủ gắt. Tính ông nóng lắm. Chắc hẳn rằng ông sẽ quát ầm nhà lên... Bác rón rén lên cầu thang gác. Ông chủ đang ngồi thụt hẳn người vào trong một cái ghế bành to, đọc báo. Mắt ông có kính. Bác bếp ngạc nhiên rồi lại thêm lo sợ. Bây giờ thì bác sợ bác đã hiểu nhầm lời ông sai đi tìm cái khác. Có lẽ ông sai bác đi tìm cái khác. Thế mới bỏ đời bác chứ! Ai bảo bác hấp ta hấp tấp? Không chịu hỏi cho rõ rồi hãy đi!

Bác rụt rè một lúc rồi mới dám đánh liều lên tiếng :

- Me-xừ.

Ông ngẩng đầu lên, hất hàm. Bác đọc như cái máy :

- Loong-toong diếc đa-na-ba-luy-nét.

Loong-toong bảo không có luy-nét! Ấy là một khoé ranh của bác. Bác cũng nhanh trí khôn lắm đấy. Loong-toong bảo không có luy-nét. Vậy thì luy-net là cái gì cũng được. Ông muốn gắt thì gắt với thằng loong-toong! Nhưng luy-nét chính là cái kính. Bởi vì ông chủ trỏ tay lên kính mắt hỏi:

- Xa? (ca)

Và ông nhún vai, mỉm cười. Thoát nạn! bác bếp Tư nhẹ lâng cả người. Một tảng đá lớn tưởng đè lên người bác vừa trút đi. Bác chạy xuống cầu thang, bước hai bậc một. Y như một hòn đá lăn trên sườn núi. Bác chạy thẳng lại cái bể. Nhìn trước nhìn sau một thoáng rồi bác mở nắp ra, cúi đầu xuống. Tối om om. Một mảng nước loang loáng như nước mực. Bác gọi con:

- Tề! Tề ơi!

Im lặng. Một nỗi nghi vụt đến. Tim bác nhảy lên một cái. Tiếng khàn khàn, bác gọi :

- Tề ơi! Ra đây thầy kéo lên.

Chẳng có gì đáp lại. Những đốm sáng lăn tăn nhẩy nhót trong bóng tối. Ấy là bác bếp Tư hoa mắt. Bởi vì đầu óc bác đã nặng trĩu, quay quay, choáng váng. Người thì bủn rủn. Bác nhoai lưng vào trong bể, vừa mếu máo vừa rên rỉ:

- Con ơi! Tề con ơi...

Đầu ngón tay bác động phải một vật gì trơn nuồn nuột mà không còn động đậy. Bác toan gào thật to. Nhưng có tiếng giầy tây cồm cộp trên thang gác. Ông chủ xuống! Bác Tư sực tỉnh. Bác rút vội đầu ra khỏi bể. Bác đậy luôn nắp lại. Vừa kịp ông chủ không trông thấy. Bác cố thản nhiên đi vào bếp, lau bát đãi để sắp sửa lên bày bàn. Nhưng nghĩ đến bàn ăn, bác lại sinh lo lắng...

- Còn chai sâm banh!... Đào đâu ra một chai sâm-banh bây giờ?

Đêm hôm ấy, đợi vợ chồng ông chủ tắt đèn đi ngủ một lúc lâu, bác Tư mới rón rén ra sân. Bác mở cái nắp bể thật êm. Bác quờ tay vào bể, loay hoay tìm cách vớt con ra.

Sáng hôm sau, bác vừa báo cho chủ biết con bác phải cảm chết đêm rồi.

Ông chủ giật mình:

- Vì dịch tả phải không?

- Bẩm ông không.

- Thế vì bệnh gì?

- Bẩm... bẩm...

Bác Tư ấp úng. Ông chủ lại càng sợ hãi:

- Đem chôn ngay đi! Bỏ vôi vào! Rồi lấy ca-re-lin rưới khắp nhà, hiểu không?

- Bẩm hiểu.

- Được rồi. Đi đi!

Ông xua bác Tư như xua đuổi một thằng hủi. Mũi ông chun lại. Ra khỏi cửa, bác Tư nhẹ hẳn người. Bác lấy làm may. Nếu ông chủ xuống xem! Nếu ông chủ biết rằng thằng bé đã ngâm mấy giờ đồng hồ trong bể nước!...

(Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao, NXB Văn học)

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?

A. Ngôi thứ nhất B. Ngôi thứ hai

C. Ngôi thứ ba D. Ngôi thứ hai và ngôi thứ ba

2. Người kể chuyện chủ yếu trần thuật theo điểm nhìn:

A. Điểm nhìn của tác giả

B. Điểm nhìn bác Tư

C. Điểm nhìn của gia đình ông chủ

D. Điểm nhìn của con bác Tư – thằng Tề

3. Tình huống dẫn đến cái kết đau buồn trong truyện là:

A. Thằng Tề trượt chân ngã té ghế

B. Thằng Tề lộn cổ vào bể nước

C. Thằng Tề bơi trong bể nước, bác Tư giấu con trong đó khi chủ nhà về và không dám để nhà chủ phát hiện cho tới khi con ở đó quá lâu

D. Thằng Tề bơi trong bể nước, bác Tư làm việc cho nhà chủ và quên con

4. Câu văn “Chỉ thương xuông cũng không thể gọi là thương. Cái lối thương để bụng vô ích lắm. Phải tìm cách tỏ lòng thương ra ngoài mới được” là lời của ai?

A. Nam Cao

B. Bác Tư

C. Thầy giáo của Tề

D. Tác giả kể chuyện

5. Đoạn đối thoại giữa bác Tư và ông chủ nhà cho thấy điều gì?

Sáng hôm sau, bác vừa báo cho chủ biết con bác phải cảm chết đêm rồi.

Ông chủ giật mình:

- Vì dịch tả phải không?

- Bẩm ông không.

- Thế vì bệnh gì?

- Bẩm... bẩm...

Bác Tư ấp úng. Ông chủ lại càng sợ hãi:

- Đem chôn ngay đi! Bỏ vôi vào! Rồi lấy ca-re-lin rưới khắp nhà, hiểu không?

- Bẩm hiểu.

- Được rồi. Đi đi!

A. Bác Tư rất lo lắng chủ nhà biết chuyện con trai đã chết trong bể nước

B. Chủ nhà là người lạnh lùng, chỉ quan tâm đến vấn đề bệnh tật và yêu cầu bác Tư phải phòng tránh bệnh cho nhà chủ

C. Chủ nhà là người quan tâm tới vấn đề sức khỏe và yêu cầu bác Tư phải phòng tránh.

D. Bác Tư lo sợ mất việc nên nói dối về cái chết của con trai.

6. Trong truyện có xuất chi tiết phi lí, trái với lẽ thường, đó là chi tiết nào?

A. Bác Tư lo lắng nhà chủ phát hiện ra con trai mình ở nhà chủ hơn là việc con ở trong bể nước

B. Bác Tư lo lắng nhà chủ phát hiện ra con trai mình ở nhà chủ nên đã nói dối là con bị cảm

C. Bác Tư nói dối được nhà chủ dù con trai mất mạng mà vẫn cảm thấy nhẹ nhõm

D. Bác Tư cảm thấy nhẹ nhõm khi nói đối được nhà chủ về sự xuất hiện của con trai mình

7. Chủ đề chính của truyện ngắn trên là:

A. Nghịch lí trong cuộc đời con người

B. Số phận của những người nông dân trước Cách mạng Tháng 8

C. Số phận của những người làm thuê

D. Sự phân biệt giàu nghèo

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Hoàn thành bảng sau để xác định điểm nhìn trong văn bản

Điểm nhìn

Nội dung thể hiện

Điểm nhìn bên ngoài

(Người kể chuyện đứng bên ngoài quan sát)

 

Điểm nhìn bên trong

(Người kể chuyện đi vào thế giới nội tâmcủa nhân vật để kể chuyện)

 

9. Lí do gì khiến bác Tư sợ hãi lo lắng nhà chủ phát hiện ra con trai mình ở trong bể nước hơn cả việc sự sống và cái chết của con? Theo em, việc này có hợp lí không? Tại sao.

10. Bằng việc tìm hiểu về văn bản trên, đọc các văn bản cùng thời kì (Xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8), em hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu nêu cảm nhận về về số phận của những người nông dân trước Cách mạng tháng 8.

Đáp án:

1. C

2. A

3. C

4. C

5. B

6. A

7. B

8.

Điểm nhìn

Nội dung thể hiện

Điểm nhìn bên ngoài

(Người kể chuyện đứng bên ngoài quan sát)

Bác chạy xuống cầu thang, bước hai bậc một. Y như một hòn đá lăn trên sườn núi

=> Sự lo lắng của bác khi con trai vẫn còn ở trong bể

Điểm nhìn bên trong

(Người kể chuyện đi vào thế giới nội tâmcủa nhân vật để kể chuyện)

- Một lúc lâu sau, bác bếp về, nét mặt băn khoăn: bởi vì bác không tìm thấy kính. Đó không phải là lỗi bác. Nhưng rất có thể rằng ông chủ gắt. Tính ông nóng lắm. Chắc hẳn rằng ông sẽ quát ầm nhà lên...

=> Sự lo lắng của bác Tư khi sợ ông chủ do bác không thấy kính vì tính ông chủ rất nóng

- Và ông nhún vai, mỉm cười. Thoát nạn! bác bếp Tư nhẹ lâng cả người. Một tảng đá lớn tưởng đè lên người bác vừa trút đi.

=> bác Tư nhẹ nhõm khi không bị ông chủ phát hiện

9. Nguyên nhân khiến bác Tư sợ hãi lo lắng nhà chủ phát hiện ra con trai mình ở trong bể nước hơn cả việc sự sống và cái chết của con:

- Nguyên nhân trực tiếp: Nỗi lo lắng dùng nước bẩn của ông chủ người Tây: Khí hậu ở đây chẳng được lành; những người chưa quen với thủy thổ miền nhiệt đới, đến đây mà chẳng biết giữ thân, khó khỏi chết vì nguy hiểm ấy truyền nhiễm phần nhiều do nước bẩn. Bởi vậy nước ăn của ông phải coi giữ như thế nào cho thật sạch. Cái bể nước của ông, ông coi quý gần bằng vợ ông. Mà có lẽ còn quý hơn vợ ông nữa. Bởi vì vợ ông ông có thể để người khác bắt tay, chứ bể nước mà đứa nào dám nhúng tay bẩn hay cái "sô" bẩn vào thì cứ liệu cái thần hồn với ông.

- Nguyên nhân sâu xa: Số phận của những người ở tầng lớp dưới đáy xã hội, đi làm thuê cho nhà chủ Tây, họ phải chịu đựng sự nóng nảy, lạnh lùng, xét nét của chủ nhà, họ làm công nhưng luôn bị coi thường, khinh rẻ, nếu bị chủ nhà nổi giận hay phật ý thì công việc cũng sẽ không còn, nơi mưu sinh kiếm sống qua ngày cũng không còn.

10.

Trước Cách mạng, số phận của những người dân nghèo vô cùng bất hạnh và bi thảm. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, bị tước đoạt nhân quyền, những con người ấy phải chịu biết bao áp bức, bất công. Cuộc sống của họ vô cùng nghèo đói và đau khổ. Để duy trì sự sống họ lúc nào cũng phải cúi đầu, cam chịu, nhẫn nhục thậm chí phải từ bỏ những người thân ruột thịt của mình để giữ được miếng cơm manh áo. Là tầng lớp bị áp bức trong xã hội, họ không có quyền lên tiếng, cũng không dám phản kháng, cuộc sống của lớp người nghèo ấy chìm trong bóng tối, không có tương lai, hi vọng, phải sống trong sự coi thường, khinh rẻ của tầng lớp thống trị tàn bạo. Trong tình cảnh ấy, rất nhiều người bị đẩy đến bước đường cùng, phải tìm đến cái chết, cũng có những con người bị tha hoá, bị từ chối quyền được làm người, cuối cùng vẫn phải tìm đến cái chết để giải thoát. Tuy vậy, trong bi kịch tăm tối ấy, vẫn ánh lên những con người nghèo khổ nhưng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp, đói nghèo không làm họ tha hoá họ sống lương thiện và trong sạch. Trước Cách mạng tháng Tám khi chưa có ánh sáng dẫn đường của Đảng, những người nghèo ấy dù có là ai đi chăng nữa đều có chung một số phận đau khổ, bất hạnh cuộc sống thì tăm tối, bần cùng và nghèo đói.

Câu 5: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho:

- Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi.

Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó.

Con Bích ở trong hẻm, nhà nó nghèo, má nó đi bán bắp nướng ngoài đầu hẻm, con bé Em thích con Bích vì nó hiền, với lại ngồi kế nhau từ lớp một tới lớp năm, làm sao mà không thân cho được. Hôm hai mươi sáu, học buổi cuối năm, hai đứa nôn Tết quá trời nên tính trước, nếu mùng một con bé Em đi về ngoại thì mùng hai hai đứa đi tới nhà cô giáo. Bây giờ con bé Em tính trong đầu, tới bữa đó chắc nhiều bạn nữa, cho nên nó sẽ mặc cái áo đầm mới thắt nơ, bâu viền kim tuyến cho tụi bạn lé con mắt luôn.

Con Bích đang ngồi nướng bắp thế cho má nó đi xách cặn cho heo. Bé Em muốn khoe liền nhưng bày đặt nói gièm:

- Còn mấy ngày nữa Tết rồi hen, mầy có đồ mới chưa?

- Có, má tao đưa vải cho cô Ba thợ cắt rồi, má tao nói gần Tết đồ nhiều, dồn đống, chắc tới hai mươi tám mới lấy được.

- Vậy mầy được mấy bộ?

- Có một bộ hà.

Con bé Em trợn mắt:

- Ít quá vậy?

- Con Út Mót với con Út Hết được hai bộ. Tao lớn rồi, nhường cho tụi nó.

- Vậy à?

Bé Em mất hứng hẳn, nó lựng khựng nửa muốn khoe, nửa muốn không.

Nhưng rõ ràng là con Bích không quên nó:

- Còn mầy?

- Bốn bộ. Má tao mua cho đủ mặc từ mùng một tới mùng bốn, bữa nào cũng mặc đồ mới hết trơn. Trong đó có bộ đầm hồng nổi lắm, hết sẩy luôn.

- Mầy sướng rồi.

Con Bích nói xong vẫn cười nhưng mắt nó xịu xuống, buồn hẳn. Nhà nó nghèo, sao bì được với nhà con bé Em. Hồi nhỏ nó chuyên mặc áo con trai của anh hai nó để lại. Áo nó thì chuyền cho mấy đứa em, tới con Út Hết là đồ đã cũ mèm, mỏng tang, kéo nhẹ cũng rách. Được cái mấy chị em nó biết thân, lo học chớ không so đo chuyện cũ mới. Má nó nói hoài: “Nhà mình nghèo quá hà, ráng vài năm nữa, khá giả rồi má sắm cho”. Con bé Em nhìn con Bích lom lom rồi cúi xuống, trở trở trái bắp nướng:

- Bộ đồ mầy may chắc đẹp lắm, bữa mùng hai mầy mặc bộ đó đi nhà cô hen?

Rồi tới mùng một, mùng hai, bé Em lại rủ con Bích đi chơi. Hai đứa mặc đồ hơi giống nhau, chỉ khác là con Bích mặc áo trắng bâu sen, con bé Em thì mặc áo thun có in hình mèo bự. Cô giáo tụi nó khen:

- Coi hai đứa lớn hết trơn rồi, cao nhòng.

Hai đứa cười. Lúc đó con bé Em nghĩ thầm, mình mà mặc bộ đầm hồng, thế nào cũng mất vui. Bạn bè phải vậy chớ. Đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân. Nhưng Bích lại nghĩ khác, bé Em thương bạn như vậy, tốt như vậy, có mặc áo gì Bích vẫn quý bé Em. Thiệt đó. 

                             (Áo Tết, Nguyễn Ngọc Tư, in trong Bánh trái mùa xưa, Nxb Văn học).

1. Truyện ngắn trên sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ mấy?

2. Đoạn trích trên chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật nào?

3. Việc bé Em quyết định không mặc bộ đầm hồng mà mặc bộ đồ hơi giống bạn của mình khi cùng bạn đi thăm cô giáo cho thấy bé Em là một cô bé như thế nào?

4. Ở bậc THCS, anh/chị cũng đã từng được biết một truyện ngắn nói về sự đồng cảm, tình yêu thương của những đứa trẻ con nhà giàu đối với những đứa trẻ con nhà nghèo khó. Đó là truyện ngắn nào, của tác giả nào?

5. Anh/chị rút ra được bài học gì về tình bạn sau khi đọc truyện ngắn trên?

6. Từ truyện ngắn trên, anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự đồng cảm đối với người khác trong hoàn cảnh khó khăn.

Đáp án:

1. Truyện ngắn trên sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ ba.

2. Đoạn trích trên chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật Em.

3. Việc bé Em quyết định không mặc bộ đầm hồng mà mặc bộ đồ hơi giống bạn của mình khi cùng bạn đi thăm cô giáo cho thấy bé Em là một cô bé có tâm hồn tinh tế.

4. Ở bậc THCS, có một truyện ngắn nói về sự đồng cảm, tình yêu thương của những đứa trẻ con nhà giàu đối với những đứa trẻ con nhà nghèo khó. Đó là truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của tác giả Thạch Lam.

5. Bài học cuộc sống em rút ra được sau khi đọc văn bản Áo tết của Nguyễn Ngọc Tư:

+ Ta luôn phải biết quan tâm, yêu thương, chia sẻ với người bạn thân của mình.

+ Đã là bạn thân ta nên nghĩ cho nhau, yêu mến nhau.

+ Chúng ta phải biết trân trọng tình bạn, tôn trọng người bạn của mình.

6. Sự đồng cảm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi chúng ta trong cuộc sống. Sự đồng cảm là thái độ tôn trọng, thấu hiểu, sẻ chia giữa người với người và vạn vật xung quanh. Nó không chỉ giúp cuộc đời mỗi người trở nên hạnh phúc, có giá trị mà còn góp phần gắn kết mối quan hệ giữa người với người, người với đời. Đồng cảm là khi ta biết trân trọng cuộc sống của chính bản thân mình, từ đó tôn trọng cuộc sống của người khác. Đồng cảm còn là khi ta có khả năng cảm nhận vẻ đẹp ẩn sâu bên trong vạn vật, luôn khám phá vạn vật ở cái chân thiện mĩ. Một xã hội có sự đồng cảm là một xã hội văn minh, phát triển. Vì vậy, hãy làm giàu tâm hồn mình bằng cách mở rộng tấm lòng, yêu thương bản thân và những người xung quanh, trân trọng cuộc sống và có ý thức bảo vệ cái đẹp. Trong thực tế, không khó để ta bắt gặp và cảm phục những con người mang trong mình đức tính này. Tuy nhiên, vẫn có một số người sống ích kỉ, chỉ biết nhận lại chứ không biết cho đi. Họ chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình mà không quan tâm đến người khác muốn gì, nghĩ gì, cần giúp đỡ gì. Đứng trước hiện tượng này, tất cả chúng ta cần học cách đồng cảm, sẻ chia với những người xung quanh từ những việc làm nhỏ nhất: gửi lời chào tới bố mẹ trước khi đi học, chúc người bạn cùng bàn một ngày tốt lành khi tới lớp… Như vậy, chắc chắn cuộc sống ý nghĩa hơn rất nhiều. Bởi đúng như một nhà văn Nga từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương của con người”.

Xem thêm các bài viết về định nghĩa và khái niệm môn Văn chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học