Tiểu thuyết là gì (chi tiết nhất)

Bài viết Tiểu thuyết là gì chi tiết nhất, đầy đủ khái niệm, đặc điểm, cách đọc hiểu & bài tập có đáp án chi tiết giúp bạn nắm vững kiến thức trọng tâm về Tiểu thuyết.

Tiểu thuyết là gì (chi tiết nhất)

Quảng cáo
Cài đặt app vietjack

1. Khái niệm tiểu thuyết

Tiểu thuyết là loại tác phẩm tự sự quy mô lớn, có khả năng thể hiện các nội dung đa dạng và bao quát một phạm vi hiện thực rất rộng, trải ra trên nhiều không gian, thời gian khác nhau nhưng dành sự chú ý đặc biệt cho đời tư hay số phận của con người cá nhân. Từ những hình thái đầu tiên xuất hiện ở thời cổ đại, tiểu thuyết phát triển theo nhiều hướng khác nhau, tùy thuộc vào những tiền đề lịch sử, xã hội, văn hóa, thẩm mĩ nhất định. Đến thời cận đại, hiện đại, tiểu thuyết đạt được bước tiến lớn, trở thành một thể loại chính của đời sống văn học và tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi, phát triển của nhiều thể loại khác.

Tiểu thuyết hiện đại là loại tiểu thuyết thể hiện một cách tư duy mới, mang tính hiện đại về đời sống, phân biệt với tiểu thuyết cổ điển ra đời trước thời đại tư bản chủ nghĩa. Trong tiểu thuyết hiện đại, giữa các xu hướng tìm tòi khác nhau có khoảng cách rất lớn. Điều này làm cho việc xác định diện mạo tiểu thuyết hiện đại trở nên phức tạp. 

2. Nội dung của tiểu thuyết

Nội dung: Thường là chủ đề hư cấu hoặc bán hư cấu; bức tranh cuộc sống trong những cuốn tiểu thuyết văn học được phác họa rõ ràng, phức tạp và gần gũi hơn rất nhiều do câu từ phong phú và không bị giới hạn.

Quảng cáo

3. Kết cấu của tiểu thuyết

Kết cấu: Không có bất cứ nguyên tắc rõ ràng nào về vấn đề kết cấu thể loại xác định của tiểu thuyết. Một vài kết cấu cơ bản thường thấy của tiểu thuyết hiện nay bao gồm kết cấu chương hồi, kết cấu luận đề, kết cấu đa tuyến, kết cấu đơn tuyến, kết cấu tâm lí,...

Chương: Phần truyện được chia theo sự kiện, thời gian, không gian hoặc nhân vật, với độ dài và nội dung linh hoạt tùy thuộc vào tác giả.

4. Đặc điểm của tiểu thuyết

Tính văn xuôi

Phương thức tự sự tiêu biểu trong văn học, giúp mô tả khối lượng nội dung lớn, tái hiện hiện thực xã hội và đời sống một cách toàn vẹn, phơi bày sự phức tạp của chúng trong một thể thống nhất.

Tính đa dạng sắc độ thẩm mĩ

Tiểu thuyết không chọn lựa màu sắc đặc thù trong việc tiếp nhận hiện thực, mà mô tả sự pha trộn hài hòa giữa các yếu tố như đẹp, xấu, thiện, ác, bi, hài…

Nghệ thuật kể chuyện

Riêng biệt, thường sử dụng góc độ người kể chuyện để miêu tả sự việc và tâm lí nhân vật. Các điểm nhìn trần thuật khác nhau tạo nên giá trị và nội dung đa dạng cho tác phẩm.

Tính hư cấu

Cho phép tái hiện thời gian, không gian, nhân vật và câu chuyện một cách tự do, không bị giới hạn bởi khuôn mẫu lịch sử, từ đó bộc lộ khả năng sáng tạo và ngôn từ của tác giả.

Tính phản ánh toàn vẹn đời sống

Khả năng phản ánh hiện thực khách quan đầy đủ và sinh động, với không gian và thời gian rộng lớn, giúp nhà văn mở rộng tầm vóc hiện thực trong tác phẩm.

Tính tổng hợp

Cho phép kết hợp phong cách nghệ thuật của các thể loại khác mà không bị giới hạn. Các thủ pháp nghệ thuật như rung động, xung đột xã hội, màu sắc, hiện thực đời sống, thanh âm, sự cân xứng thường được sử dụng, kết hợp với các bộ môn khoa học phức tạp.

Nhân vật

Yếu tố quan trọng của tiểu thuyết, với nhiều vai trò như chính, phụ, chính diện, phản diện. Tùy góc độ nhân vật, tác giả chọn ngôi kể phù hợp.

Cốt truyện

Đây là phần nội dung bao gồm các nhân vật đã được thiết kế và xác định trước. Với mục tiêu trình bày mạch truyện và các điểm cảm xúc của nhân vật, cốt truyện giúp dẫn dắt người đọc thấu hiểu nội dung cuốn tiểu thuyết.

Quảng cáo

5. Ví dụ một số văn bản thuộc thể loại tiểu thuyết

- Nguyên Hồng: Bỉ vỏ, Cửa biển,…

- Nam Cao: Sống mòn,…

- Nguyễn Công Hoan: Lá ngọc cành vàng, Đống rác cũ,…

- Macxim Gorki: Thời thơ ấu, Kiếm sống, Các trường đại học của tôi,…

- …

6. Cách đọc hiểu một văn bản thuộc thể loại tiểu thuyết

Khi đọc tiểu thuyết và truyệnngắn cần lưu ý:

- Phân tích hình tượng nhân vật: Tư tưởng của nhà văn thể hiện ở hệ thống nhân vật, tập trung ở nhân vật chính. Khi phân tích nhân vật chú ý:

+ Các chi tiết miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động, biến cố, ngôn ngữ. Các yếu tố này thể hiện tính cách, bản chất và số phận nhân vật.

+ Quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật khác, với hoàn cảnh.

+ Nhân vật thể hiện tư tưởng gì của nhà văn?

- Phân tích chi tiết, cốt truyện: Cốt truyện là hệ thống sự kiện xảy ra trong đời sống nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận của nhân vật. Các chi tiết cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của nhân vật này đối với nhân vật khác…

Quảng cáo

- Phân tích sự miêu tả hoàn cảnh trong tác phẩm. Hoàn cảnh nghệ thuật biểu hiện tâm tình, địa vị của nhân vật và thể hiện tư tưởng của nhà văn.

- Phân tích kết cấu để thấy được tính cách, quan hệ, số phận của nhân vật. Kết cấu tác phẩm là một yếu tố rất quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm và  thể hiện tư tưởng của tác giả. Kết cấu là cách tổ chức, sắp xếp các chi tiết, sự kiện, tình tiết trong tác phẩm.

- Phân tích ngôn ngữ của tác phẩm. Trong đó có ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ của nhân vật, nội dung và hình thức của ngôn ngữ để từ đó phân tích nhân vật và tác phẩm.

7. Một số bài tập liên quan đến thể loại tiểu thuyết.

7.1. Trắc nghiệm

Câu 1. Dòng nào sau đây định nghĩa đúng về tiểu thuyết?

A. Là tác phẩm văn xuôi cỡ lớn, có nội dung phong phú, có cốt truyện phức tạp; phản ánh nhiều sự kiện, cảnh ngộ; thường miêu tả nhiều tuyến nhân vật, nhiều quan hệ chồng chéo với những diễn biến tâm lí phức tạp, đa dạng.

B. Là tác phẩm văn xuôi cỡ vừa, có nội dung phong phú, có cốt truyện phức tạp; phản ánh nhiều sự kiện, cảnh ngộ; thường miêu tả nhiều tuyến nhân vật, nhiều quan hệ chồng chéo với những diễn biến tâm lí phức tạp, đa dạng.

C. Là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ, có nội dung phong phú, có cốt truyện phức tạp; phản ánh nhiều sự kiện, cảnh ngộ; thường miêu tả nhiều tuyến nhân vật, nhiều quan hệ chồng chéo với những diễn biến tâm lí phức tạp, đa dạng.

D. Đáp án khác

Đáp án: A

Câu 2: Tính cách nhân vật trong truyện được khắc họa qua những chi tiết nào?

A. Hình dáng, cử chỉ

B. Hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ

C. Nhận xét của người kể chuyện và các nhân vật khác

D. Cả 3 đáp án trên đều đúng

Đáp án: D

Câu 3: Dòng nào không nói về thuật ngữ điểm nhìn trần thuật trong truyện kể

A. Điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật.

B. Điểm nhìn nội tâm.

C. Điểm nhìn bên ngoài, bên trong.

D. Điểm nhìn không gian, thời gian.

Đáp án: B

Câu 4. Lời nhân vật trong truyện là:

A. Ngôn ngữ độc thoại/ đối thoại.

B. Lời nhận xét sự việc.

C. Lời trần thuật sự việc.

D. Lời miêu tả khung cảnh.

Đáp án: A

Câu 5: Dòng nào nói lên tác dụng của điểm nhìn trong truyện?

A. Vị trí để quan sát, trần thuật, đánh giá.

B. Điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật.

C. Điểm nhìn bên ngoài, bên trong.

D. Điểm nhìn không gian, thời gian.

Đáp án: A

Câu 6: Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên trong là:

A. Người kể chuyện lấy điểm nhìn nhân vật làm chỗ đứng để kể chuyện.

B. Người kể chuyện lấy thế giới nội tâm nhân vật làm chỗ đứng để kể chuyện.

C. Người kể chuyện lấy điểm nhìn bên trong của bản thân để kể chuyện.

D. Người kể chuyện kể suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật.

Đáp án: B

Câu 7. Triết lí nhân sinh trong văn học là quan niệm và sự lí giải của nhà văn về các vấn đề chung liên quan đến cuộc sống, số phận con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đúng hay sai?

A. Sai

C. Đúng

Đáp án:B

Câu 8: Dòng nào nói lên hiệu quả trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn phức hợp?

A. Miêu tả sinh động, chân thực hiện thực đời sống.

B. Phải ánh được các mối quan hệ phúc tạp của nhân vật.

C. Làm nổi bật thế giới nội tâm và cả bi kịch cá nhân của nhân vật.

D. Tạo nhiều góc nhìn, nhiều giọng điệu cho tác phẩm.

Đáp án: C

Câu 9: Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba theo điểm nhìn phức hợp là:

A. Di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện đến nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong…

B. Là thay đổi ngôi kể theo sự phát triển của các tình tiết, sự kiện, biến cố trong truyện.

C. Là hoán đổi ngôi kể từ ngôi thứ nhất sang thứ ba và ngược lại.

D. Là đi vào khám phá nội tâm, tâm lý của nhân vật.

Đáp án: A

Câu 10: Bối cảnh của truyện gồm những yếu tố nào?

A. Hoàn cảnh xã hội của một thời kì lịch sử nói chung

B. Thời gian và địa điểm

C. Quang cảnh cụ thể xảy ra câu chuyện

D. Cả 3 đáp án trên đều đúng

Đáp án: D

7.2. Tự luận

Câu 1: Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp

BƠ VƠ

(chương 2, Bỉ vỏ, Nguyên Hồng)

Tóm tắt tiểu thuyết “Bỉ vỏ”

Bính là cô gái nghèo làng Sòi. Vì nhẹ dạ, yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa, cô bị cha mẹ hắt hủi, đay nghiến và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, Bính trốn nhà đi Hải Phòng mong tìm được người tình nhưng lại rơi vào nhà chứa của mụ Tài sẽ cấu. Sống ê chề, cực nhục ở nơi bẩn thỉu hội hám, Bính ốm nặng.

Bính toan tự tử nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở Hải Phòng, chuộc ra khỏi nhà chứa, chăm sóc hết lòng. Nhưng rồi Năm bị bắt. Thế là, bất đắc dĩ, Bính trở thành một “bỉ vỏ” – người đàn bà ăn cắp. Do một sự hiểu lầm và ghen tuông, Năm Sài Gòn đuổi Bính đi. Bính về Nam Định, gồng thuê gánh mướn kiếm ăn. Được tin bố mẹ ở quê gặp tai hoạ có thể bị tù, Bính không còn cách nào khác, đã phải nhận lời lấy một viên mật thám để có tiền gửi về cứu bố mẹ.

Năm Sài Gòn bị bắt bởi chính tay người chồng Bính. Không chút do dự, cô đã lẻn xuống trại giam, mở khoá cứu Năm rồi cùng y đi trốn. Kết cục bi thảm đã đến: một lần, Năm cướp được một đứa bé đeo vòng vàng trên tàu thuỷ. Bính hốt hoảng nhận ra đó chính là đứa con mà bao lâu Bính nhớ thương. Nhưng nó đã chết! Giữa lúc đó, đội xếp, mật thám ập vào, Năm và Bính đều bị bắt.

Đoạn trích sau là chương 2 của tác phẩm

(1) Hải Phòng. Lần này là lần đầu tiên Bính bước chân đến một tỉnh ồn ào đông đúc, khác hẳn chốn quê mùa vắng vẻ. Bính trốn đi, sau đêm ấy đến nay đã được bốn hôm. Bốn hôm dài quá chừng! [..]

Món tiền sáu hào chắt bóp ngót nửa năm trời đã dùng để trả tiền ăn tiền tàu từ Nam ra Phòng mất bốn hào. Còn hai hào thì vừa vặn ăn uống trong hai hôm nay. Bính hoang mang, cúi gằm mặt trong dải đường nhựa lấp lánh bóng trăng nhấc từng bước một.

Bính đi như thế không cần biết rồi sẽ đi tới đâu, miễn cho qua một đêm. Lúc này Bính bỗng hồi hộp, bối rối lạ thường. Những bụm cọ đen thẫm, ù ù lộng gió ở vườn hoa sông Lấp gợi trong trí Bính bao nhiêu hình dung quái gở. Bính tưởng con đường Bính đi tối tăm hoang vắng như cảnh một bãi tha ma. Những cành xoan xao động và những cành tre là ngọn bên những ngôi mộ chơ vơ mới đắp. Những tàu lá cọ to sùm suề giống những mớ tóc người điên hay thắt cổ.

Bính bật kêu khe khẽ:

- Biết làm sao đêm nay?!

Bính lại thấy đêm lạnh và dài lắm, một thân gái quê mùa đi bỡ ngỡ lang thang ở giữa cái tỉnh lắm kẻ lừa lọc, nham hiểm này, gặp những sự không may lạ thường. Nếu Bính không khéo gìn giữ, biết đâu đêm nay chẳng sẽ là cái đêm bắt đầu một cuộc đời khốn nạn nhơ nhuốc khác mà dù cực nhục chừng nào, Bính cũng phải cắn răng chịu, chứ không thể quay về quê nhà được. Bính thở dài. Mấy hôm nay tai tiếng chắc đã đồn đi khắp làng trên làng ngoài. Thế nào họ chẳng bảo lại vì mê giai, theo giai mà bỏ nhà đi. Cái tiếng theo giai đó là một sự nhơ nhuốc không sự nhơ nhuốc nào bằng. Vì người ta hiểu rằng: giai là một đứa xỏ xiên chỉ phá hoại trinh tiết người đàn bà, còn kẻ theo nó phải là một con đĩ thoã vô cùng.

Bính đã đi qua Sáu kho. Hôm nay các tàu chạy hết. Trên sông chỉ còn thấp thoáng mấy ánh lửa leo lét, chập chờn của dăm chiếc thuyền con đỗ đằng xa.

(2) Thốt nhiên Bính dừng bước, trong một phút Bính tưởng như là bến Sòi quê Bính. Bính ngẩng đầu bỡ ngỡ nhìn, lắng tai nghe: tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng vang trước gió lạnh, réo rắt và thấm thía... Sự hồi tưởng ấy làm Bính cảm thấy rõ rệt bố mẹ mình là giả dối. Bính ghê sợ cho sự “nguyện ngắm” hàng ngày chỉ dùng che mắt thế gian. Phải, chỉ che mắt thế gian thôi! Nay đi xưng tội, mai đi chịu lễ, sáng sớm nào cũng có mặt ở nhà thờ, đêm nào cũng thức tới mười một, mười hai giờ để đọc kinh, hỏi để làm gì?

Thì cũng như trăm nghìn gia đình chỉ ngoan đạo bề ngoài, gia đình Bánh bao năm được người làng khen là êm ấm đáng làm mẫu mực nhưng thực chẳng có lấy một chút gì yên vui, thuận hoà, đạo đức bên trong. Cha mẹ Bính cắn rứt nhau luôn, vì thiếu thốn, chửi mắng hành hạ Bính luôn vì Bính không như ai giảo hoạt, tinh ranh trong sự cạnh tranh khách đi đò và buôn bán mua rẻ bán đắt tôm cá của các thuyền chài lưới quen thuộc. Hơn nữa, Bính không biết mưu tính các cách gian lận với những khách gửi hàng để lo cho mình có cái bộ cánh mà nhà không sao sắm sửa được vì ruộng đất cày cấy không có, ngoài mảnh vườn chỉ được cái rau ăn còn đều trông vào con đò thì phải sinh sống rất khôn ngoan xoay giờ đủ mặt. Những điều này đã làm Bính suy nghĩ và đau lòng.

Bính buồn bã lắc đầu rồi giơ tay làm “dấu” đoạn thầm thì cầu kinh. “Lạy Cha chúng tôi ở trên giời, xin Cha cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha nợ cho chúng tôi như chúng tôi đã tha kẻ có nợ chúng tôi... Thì Chúa sẽ ban ơn cho tôi giữ đạo nên ở đời này cho ngày sau được lên nước thiên đàng vui vẻ đời đời....

(3) Gió sông càng ù ù, sương càng mù mịt. Bính đọc hết năm chục kinh, làm “dấu”, đoạn khép chặt tà áo vào người rồi rảo bước. Chợt có tiếng người gọi:

- Cô kia đi đâu?

Bính không dám quay lại trả lời cứ lùi lũi đi nép vào rặng cây bên đường. Một

chiếc xe tay đâm xô lại, chắn lấy lối đi, tiếp đến những tiếng cười ran:

- “Săn” kì được “mẻng” ấy cho tao.

Bính tránh hẳn sang bên kia, gằm mặt xuống xốc lại cái đẫy vải đeo sau lưng. Một người đàn ông vận quần áo lót kẻ sòng sọc rất chải chuốt và tóc bóng lộn, ngồi trên xe nom trõ mặt vào mặt Bính, Bính quay mặt ra chỗ khác. Người ấy kéo vạt áo Bính, ngọt ngào hỏi:

– Cô định tìm ai ở đây?

Bính hoảng hốt chực chạy. Nhưng chung quanh Bính năm chiếc xe đã vây kín, Bính kêu lên:

- Ô kìa!

Tên ngồi xe nhại lại, cười sặc sụa. Dáng điệu ngây thơ của Bính bảo rõ với bọn này rằng Bính là một gái quê mới ra tỉnh lần đầu và là một gái quê xinh đẹp hẳn hoi. Thật vậy, dưới ánh đèn điện, mắt Bính lấp lánh chớp luôn, đôi má mũm mĩm ửng hồng chúng trông ngon lành quá.

Một gã kéo xe nhưng tóc mai cũng xén nhọn và để dài như thằng ngồi xe, mặc hai gã khác ngồi trên xe ngăn lại không cho, rồi gã vận quần áo lót kẻ sòng sọc áo trắng là cổ bẻ và ngoài khoác áo tây vàng toan giằng lấy khăn vuông Bính, song hai gã khác ngồi trên xe ngăn lại không cho, rồi gã vận quần áo lót kẻ sòng sọc mượn cớ nhảy xuống bíu lấy vai Bính. Bính kêu thất thanh. Thừa cơ hai cái xe chạy đi đón khách dưới thuyền lên, Bính liền lẩn nhanh ra chỗ khác. Đám xe rãn cả, tản mỗi nơi một chiếc. Còn Bính, Bính đi ngược lên phố vì Bính nhận thấy nếu cứ lang thang, bơ vơ ở những chỗ đường vắng thì thế nào cũng còn bị chòng ghẹo.

Được một quãng có nhà cửa thì lại đến quãng vườn hoang. Những bụi cây là mù trước những ngọn đèn điện bóng mờ hiện ra trước mắt Bính làm trống ngực Bính lại đập thình thịnh. Chợt Bính lạnh toát cả người, quay đầu nhìn về đằng sau; một bóng người đương rảo gót như đuổi Bính. Bính đi nhanh hơn. Người theo sau cũng bước gấp, phút chốc hắn đi sát cạnh Bính và khẽ nói:

– Cô! Cô chậm bước chứ để tôi ngỏ câu chuyện này.

Nhời nói êm đềm khiến Bính bớt sợ, Bính đưa mắt nhìn thì đó là người ngồi trên xe ban nãy nhưng đã thay quần áo khác, Bính im lặng nhìn bộ y phục lạ lùng của hắn: cái áo dạ tím bó chẹt lấy lưng, hai ống quần lướt thướt như bằng lụa thì buông chùng quá gót, cái mũ dạ mới lạ làm sao, lóng lánh một chiếc tên mạ kém như dấu hiệu của lính. Bính chợt nhớ đến cái hạng công tử cũng kiểu ăn mặc như thế này những ngày hội đầu năm vùng Bính bọn chúng thường kéo về chớt nhả gái làng. Bính vội quay đi.

Hắn chẳng còn do dự, nắm ngay cánh tay Bính, cặp mắt sáng lên khác thường

– Cô đi đâu bây giờ? Đi một mình mà không buồn à?

Bính thót người lại hết sức giăng tay ra, nhưng hắn đã bá lấy cổ Bính, hôn vào má Bính đánh chụt một cái. Đường vắng vẻ quá, gió thổi lào xào trong những bụm cọ lù mù, vành trăng lại bị mây đen che đi.

Hắn bế xốc Bính lên, mặc Bính giãy giụa the thé van lơn, chạy vào trong vườn. Bính phải kêu thét lên nhưng gió thổi mạnh đánh bạt cả tiếng Bính đi.

Trong chớp mắt hắn dằn Bính xuống vệ cỏ...

Bỗng một đoàn xe đạp xăm xăm từ đằng xa tới, đèn xe kéo dài những vệt sáng rung động trên đường nhựa, có một ngọn soi chõ vào vườn như tìm tới.

Bính vội gào to:

- Các ông ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Chẳng để Bính kêu thêm, hắn hốt hoảng buông Bính ra rồi chạy thẳng. Bính choáng váng mừng rỡ, nhặt mau cái đẫy vải lăn trên bãi cỏ chạy ra đường. Gió thổi mạnh. Mấy người ngồi xe đạp chẳng nghe thấy gì, song họ đều ngẩng đầu tò mò trông khi Bính trong vườn xô ra. Bính cố giữ tự nhiên, lẳng lặng rảo bước một lát tới đầu phố. Trống ngực Bính vẫn đập rộn. Cảnh vật vẫn u ám! Bính len lét đến trước một cái hiên rộng, ngồi thở. Đồng hồ ở trong nhà vắng lên mười một tiếng.

(4) Đường sá càng vắng tanh, vắng ngắt. Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và cực nhục làm sao! Còn ê chề, cay đắng hơn cả một năm lam lũ! Bính nép người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót sôi nổi trong lòng. Bính càng mỏi mệt, ròng rã một ngày, Bính đi không mấy lúc nghỉ chân. Đã thế lại vừa phải chống cự với thằng đểu kia nên hai đầu gối Bính mỏi dừ, bụng cồn cào ngâm ngẩm đau. Gió đêm như ru, Bính chợp mặt thiu thiu ngủ.

Bỗng không biết từ đâu đưa tới tiếng trẻ con khóc oe oe giống tiếng mèo gào vang động cả trời khuya.

Bính mở choàng mắt, chợt nhớ đến đứa con thơ chưa đầy tháng, tại cha mẹ Bính cay nghiệt, tại cái tục lệ quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó không biết bao giờ lại được ôm nó trong lòng. Bính vừa cất tiếng khóc rưng rức thì tiếng khóc kia nín bặt, Bính vụt nghĩ đến đứa bé kia khóc thế nào chả có người vỗ về ru cho bú, còn con Bính thân phận con nuôi con mày, giá đêm khát sữa, thì dù có được chiều chuộng mấy chăng nữa cũng khó mà được bú đêm. Ấy là không kể đến người nuôi dỗ mãi không nín thì thế nào chả phát nó năm bẩy chiếc phát cho bõ cái bực tức bị thức giấc.

(Nguyên Hồng, Bỉ vỏ, NXB Văn học 1985)

 (*) Tên văn bản do nhóm biên soạn đặt.

* Nguyên Hồng (1918 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng, là một nhà văn, nhà thơ. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1910). Vì có một tuổi thơ vô cùng bất hạnh, cay đắng nên ngay từ những tác phẩm đầu tay, Nguyên Hồng đã hướng ngòi bút về những người nghèo khó gần gũi mà ông yêu thương với một sự cảm thông sâu sắc, với tâm hồn của một người từng trải.

1. Đọc tóm tắt tiểu thuyết và văn bản Bơ vơ để xác định những đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại.

2. Tóm tắt nội dung văn bản Bơ vơ theo các đoạn đã đánh số và cho biết: Đoạn trích này có vị trí như thế nào đối với việc phản ánh số phận, cuộc đời của Tám Bính?

3. Vì sao Bính phải bỏ nhà ra đi (Hãy gắn đoạn trích với phần tóm tắt để lí giải)? Lý do này có ý nghĩa như thế nào?

4. Đọc đoạn số 1,3 và trả lời câu hỏi a,b

a. Tình cảnh hiện tại của Tám Bính cơ cực như thế nào?

b. Cô ấy có nhận thức được cảnh ngộ của mình không? Điều này có ý nghĩa gì?

5. Điều gì khiến Tám Bính nhớ về quê hương và gia đình? Cô nhớ về điều gì nhiều nhất? Đoạn văn bản viết về nỗi nhớ quê của Bính được thuật kể từ điểm nhìn nào? Điểm nhìn đó có vai trò gì đối với văn bản đọc?

Đáp án:

1.

- Nội dung phản ánh hiện thực trong phạm vi không gian thời gian rộng lớn: cuộc đời của Tám Bính khi là cô gái trẻ đến khi vào tù; Không gian làng quê và Hải Phòng

- Nhân vật: Nhiều nhân vật thuộc gia đình làng quê, Tám Bính và xã hội – nơi diễn ra cuộc đời lang bạt của Tám Bính. Phản ánh trọn vẹn số phận của Tám Bính: mở đầu là sự lỡ dở (sinh đứa con không cha, kết thúc bi đát là vào tù)

 - Cốt truyện với vô số sự kiện về cuộc đời Tám Bính: Tám Bính bỏ nhà đi, vào nhà chứa, Năm Sài Gòn đuổi Bính đi, cô lấy một viên mật thám để có tiền gửi về cứu bố mẹ, Tám Bính cứu Năm Sài Gòn cùng y đi trốn. Kết thúc: chứng kiến con chết, bản thân bị bắt.

2.

- Tóm tắt:

+ Đoạn 1: Bính bỏ nhà đi đã 4 ngày và vẫn bơ vơ, lo lắng ở Hải Phòng

+ Đoạn 2: Bính nhớ về làng Sòi, về nhà với bao nỗi cay đắng

+ Đoạn 3: Bính bị trêu ghẹo, ăn hiếp nơi phố thị

+ Đoạn 4: Bính bơ vơ, buồn bã và trào lên nỗi thương nhớ con

- Đoạn trích ở phần đầu tiểu thuyết có vai trò mở đầu số phận của nhân vật tiểu thuyết: Tám Bính bỏ nhà ra đi và bắt đầu chuỗi ngày cơ cực tại Hải Phòng, cho số phận khốn cùng của cô

3.

- Lí do Bính phải bỏ nhà ra đi:

+ Bố mẹ Bính là người độc ác: chửi rủa Bính; bán con của Bính để lấy tiền tiêu

+ Bính không thể chịu đựng được dư luận, sự đả kích ngay chính quê nhà mình

- Lí do này có giá trị nhân đạo sâu sắc:

+ Tố cáo sự tàn độc của tư tưởng cổ hủ, những con người bất nhân (bố mẹ Bính) đã đẩy Bính vào con đường cùng (khiến Bính hư hỏng sau này)

+ Bênh vực, cảm thông với nỗi khổ của Bính, người con gái nông thôn cả tin này không thể chống đỡ được những cạm bẫy của xã hội

4.

a. Tình cảnh hiện tại của Tám Bính:

- Bỏ nhà quê ra phố, hết tiền: Món tiền sáu hào chắt bóp ngót nửa năm trời đã dùng để trả tiền ăn, tiền tàu từ Nam Định ra Phòng mất bốn hào. Còn hai hào thì vừa vặn ăn uống trong hai hôm nay; lang thang trong đêm bị trêu ghẹo, sàm sỡ,…

- Bế tắc, hoang mang tột độ: Bính đi như thế không cần biết rồi sẽ đi tới đâu: “Biết làm sao đêm nay?! Bính lại thấy đêm lạnh và dài lắm”

b. Cô nhận thức được cảnh ngộ của mình:

- Một thân gái quê mùa bỡ ngỡ lang thang ở giữa cái tỉnh lắm kẻ lừa lọc, nham hiểm này, gặp những sự không may là thường

- Việc mình bỏ đi sẽ đồn khắp làng: theo trai, đĩ thõa,…

- Ý nghĩa: Bính- cô gái trẻ bất lực, bế tắc trước hoàn cảnh, ý thức được cảnh ngộ nhưng không thể thoát được cảnh ngộ ấy; việc Tám Bính sẽ liên tiếp gặp tai ương trong cuộc đời là tất yếu → tố cáo, lên án xã hội đẩy con người vào cảnh ngộ khốn cùng.

5.

- Điều khiến Tám Bính nhớ quê: tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng vang trước gió lạnh, réo rắt và thấm thía,…

- Nhớ về gia đình, cha mẹ:

+ Gia đình chẳng có lấy một chút gì yên vui, thuận hòa, đạo đức. Cha mẹ Bính luôn cắn rứt nhau vì thiếu thốn;

+ Chửi mắng hành hạ Bính vì Bính không biết mưu tính gian lận

+ Bố mẹ mình là giả dối, che mắt thế gian

- Đoạn được thuật kể từ điểm nhìn bên trong của nhân vật

- Vai trò của đoạn: khắc họa tâm lí nhân vật, nỗi đau khổ của cô gái trẻ, lí giải việc Tám Bính phải bỏ nhà ra đi, phản ánh một chặng đường đời của nhân vật chính

Câu 2: Đọc văn bản sau:

Những ngày đầu tiên trên đảo

(Trích tiểu thuyết “ROBINSON CRUSOE” (1) của Daniel Defoe (2) )

Thực tế hiện ra trước mắt tôi thật là khủng khiếp: sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị trôi giạt, tôi bị ném vào hòn đảo hoang vu, cách xa những đường hàng hải hàng trăm dặm. Tôi cảm thấy cuộc đời tôi sẽ măi mãi bị chôn vùi trong cảnh ngộ éo le bi thảm này. Nghĩ như thế, nhiều lúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống má than thân trách phận, buồn thay mình phải đày đọa thống khổ tới nông nỗi này. Nhưng tiếp theo những ý nghĩ yếu đuối ấy, bao giờ cũng có ngay những ý nghĩ lạc quan hơn. Một buổi đi dạo trên bãi biển, súng cắp dưới cánh tay, con chó chậm rãi đi theo sau từng bước, tôi suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh hiện tại của mình. Ngay lúc đó, lý trí vốn biết cân nhắc điều hơn lẽ thiệt, đã nổi dậy chống lại những lời than vãn bi quan đó. Tôi tự nhủ: " Này, mình hiện đương ở trong một hoàn cảnh bi đát, đúng thế! Nhưng những bạn cùng tàu của mình hiện nay ở nơi nào! Chẳng phải là tất cả có mười một người trên tàu đó sao. Vậy thì mười người kia đâu rồi? Cớ sao họ lại không sống sót, mà mình lại không chết? Vì sao chỉ có một mình ta thoát nạn? Đàng nào hơn? ở đây hay là dưới đó? (đồng thời, tôi chỉ tay xuống biển). Liệu có nên nhìn nhận mọi sự việc cả mặt tốt lẫn mặt xấu không? Chẳng lẽ những điều may mắn đã được hưởng lại không thể an ủi ta về những điều đau lòng được sao? Hơn nữa, nhìn lại, tôi thấy mình đã được thừa hưởng một tài sản khá lớn. Số phận tôi sẽ ra sao nếu không có chiếc tàu đã mắc cạn trên giải cát ngầm giữa biển, khiến tôi có thể ra lấy tất cả tài sản đó đem về cất trong kho? Không có sự may mắn đó thì tôi biết làm thế nào mà tự tạo lấy những vật dụng cần thiết cho đời sống. Bất giác tôi nói to lên: "Mình sẽ ra sao? ừ, mình sẽ ra sao nếu không có khẩu súng này, không có đạn dược để săn bắn, không có đồ dùng để làm việc, không có quần áo để che thân, không có giường để nằm, không có lều để ở?”. Nghĩ thế, tôi lại thấy phấn khởi hơn. Tôi được hưởng tất cả những thứ đó, dư dật đến mức một ngày nào đó hết thuốc đạn, khẩu súng trở thành vô ích. Khi đó, chắc chắn tôi vẫn có đủ mọi thứ để sống trong nhiều năm Ngay từ buổi đầu, tôi đã tính trước cách đối phó với mọi trở ngại khó khăn có thể xảy đến, không những chỉ tới ngày thuốc đạn thiếu hẳn, mà cả đến khi sức tôi bị yếu, lực tôi bị hao.

(Trích Robinson Crusoe - Nhà xuất bản Kim Đồng)

Chú thích:

(1) Tóm tắt tiểu thuyết ROBINSON CRUSOE: Sau vụ đắm tàu, Robinson bị dạt vào một đảo hoang cách nơi thuyền bè qua lại hàng trăm cây số. Để tránh thú dữ, anh phải làm nhà, dựng lũy, đào hang. Để có lương thực, anh tìm cách bắn chim, săn thú, câu cá và trồng lúa chỉ mới mười hai hạt thóc, rồi dùng da thú để làm quần áo, điền lịch bằng cách vạch lên khúc cây, rồi tự làm đồ gốm, đa lát rổ, thúng… Cứ như thế, cho đến khi trở về quê hương, Robinson đã trải qua hai mươi tám năm trên đảo.

Dựa vào một sự việc có thật đương thời, Defoe đã viết nên một tiểu thuyết đầy sức hấp dẫn, với văn phong trong sáng, giản dị và tình tiết vô cùng kì thú. Ngay khi ra đời vào năm 1719, Robinson Crusoe đã được đón nhận và phổ biến rộng rãi. Chỉ trong năm đầu tiên, cuốn truyện đã được tái bản tới bốn lần. Tới cuối thế kỉ XIX, với hơn 700 phiên bản, kể cả truyện tranh, chưa cuốn sách nào trong lịch sử văn học phương Tây lại có nhiều ấn bản, thu được nhiều lợi nhuận và có nhiều bản dịch hơn tác phẩm này.

(2) Daniel Defoe: Daniel Defoe, sinh vào khoảng năm 1659/1661 tại London. Ban đầu, ông đã được giáo dục để trở thành mục sư nhưng về sau lại theo nghiệp kinh doanh và cuối cùng là viết lách.

Lựa chọn đáp án đúng:

1. Xác định lời người kể chuyện trong đoạn trích trên:

A. Lời người kể chuyện hạn tri

B. Lời người kể chuyện toàn tri

C. Lời người kể chuyện biết tuốt

D. Lời người kể chuyện có giới hạn

2. Thực tế khủng khiếp mà nhân vật tôi phải đối mặt là gì?

A. Sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị trôi dạt, nhân vật tôi là người duy nhất ở lại trên tàu, còn tất cả bạn đồng hành đã bị chìm sâu dưới đáy biển.

B. Sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị trôi dạt, nhân vật tôi bị ném vào hòn đảo hoang vu, cách xa những đường hàng hải hàng trăm dặm.

C. Sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị trôi dạt, nhân vật tôi đã bị bọn cướp biển chiếm tàu và bắt giữ.

D. Sau một cơn bão dữ dội trên một chiếc tàu bị trôi dạt, nhân vật tôi đã bị bọn cướp biển chiếm tàu và là người duy nhất sống sót trên biển.

3. Cảm xúc của nhân vật tôi khi phải đối mặt với những điều khủng khiếp xảy ra là gì?

A. Nhân vật tôi đã khóc và tuyệt vọng rất nhiều khi tình huống khủng khiếp đó xảy ra.

B. Nhân vật tôi vui vẻ vì đã rời xa được áp lực và sự sắp đặt của gia đình.

C. Nhân vật tôi đã khóc, than thân và trách móc thiên nhiên, số phận và những người đồng hành.

D. Nhân vật tôi nhiều lúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống má than thân trách phận, buồn thay mình phải đày đọa thống khổ tới nông nỗi này

4. Ngay sau những “suy nghĩ yếu đuối” vì sao nhân vật tôi đã có cách nhìn “lạc quan” hơn (Lựa chọn những đáp án đúng)

A. Bởi nhân vật tôi nhận ra, mình là người duy nhất sống sót trong 11 người đồng hành trên thuyền.

B. Bởi nhân vật tôi nhận ra, mình đã được thừa hưởng toàn bộ “gia sản” còn sót lại trên tàu để tiếp tục duy trì sự sống trong nhiều năm.

C. Bởi nhân vật tôi nhận ra, mình đã được Chúa phù hộ để thoát nạn.

D. Bởi nhân vật tôi nhận ra, so với việc ở nhà để chịu sự áp đặt của cha mẹ thì việc sống tự do trên đảo là việc sung sướng hơn.

5. Các lời dẫn trong ngoặc kép là lời nhân vật “tôi” nói với ai?

A. Với bạn đọc

B. Với người bạn đồng hành đã chết

C. Với chính bản thân mình

D. Với tác giả

6. Theo em, điều đáng quý ở nhân vật “tôi” được thể hiện trong đoạn trích trên là gì?

A. Nhân vật tôi biết xoay sở tình thế để thích nghi với cuộc sống.

B. Nhân vật tôi là người tài giỏi có thể chế ra súng đạn và các thiết bị cần thiết cho cuộc sống một mình trên đảo.

C. Nhân vật tôi là người có suy nghĩ tích cực, lạc quan, luôn tin và tìm thấy tia hi vọng trong khó khăn.

D. Nhân vật tôi là người mạnh mẽ và có tinh thần chiến đấu gan dạ.

7. Chủ đề tư tưởng được thể hiện trong trích đoạn trên:

A. Sự tích cực, lạc quan và nỗ lực thích nghi sẽ giúp chúng ta vượt qua những hoàn cảnh khó khăn.

B. Sự thông minh, tài trí và khả năng thích nghi sẽ giúp chúng ta vượt qua những hoàn cảnh khó khăn.

C. Sự mạnh mẽ, sức khỏe tốt sẽ giúp chúng ta vượt qua những hoàn cảnh khó khăn.

D. Sự cầu nguyện, than vãn và đổ lỗi sẽ giúp chúng ta bớt đau khổ và vượt qua hoàn cảnh khó khăn.

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

8. Theo em, vì sao nhân vật tôi đã biến chuyển những “ý nghĩ yếu đuối” trở thành những suy nghĩ lạc quan?

9. Nghệ thuật trần thuật trong đoạn trích trên có gì đặc sắc?

10. Em hãy viết đoạn văn (khoảng 5-7 dòng) để bàn luận về một bài học có ý nghĩa rút ra được từ trong đoạn trích.

Đáp án:

1. A

2. B

3. D

4. A-B

5. C

6. C

7. A

8. Nhân vật tôi đã lạc quan hơn, bởi:

- Bởi nhân vật tôi cảm thấy may mắn khi mình là người duy nhất sống sót trong 11 người đồng hành trên thuyền.

- Bởi nhân vật tôi nhận ra, mình đã được thừa hưởng toàn bộ “gia sản” còn sót lại trên tàu để tiếp tục duy trì sự sống trong nhiều năm.

9.

- Nghệ thuật trần thuật:

+ Người kể ngôi thứ nhất, hạn tri: Thuật lại được những trải nghiệm cá nhân một cách chân thực và sâu sắc

+ Điểm nhìn từ bên trong nhân vật: Dễ dàng bộc lộc cảm xúc cá nhân, lời tự nhủ, lời bộc bạch một mình khi đang trong hoàn cảnh sống cô đơn trên đảo

+ Thời gian: Tuyến tính (theo từng ngày tháng nhân vật tôi sống sót trên đảo)

+ Không gian: Đảo hoang – nhân vật tôi trải nghiệm một mình

+ Ngôn ngữ và giọng điệu: tự thuật, lạc quan, bình tĩnh kể lại những trái nghiệm giá trị của mình.

10. Lạc quan là một thái độ sống vô cùng quan trọng góp phần tạo nên một cuộc sống tốt đẹp đối với tất cả mọi người. Lạc quan tức là không lo lắng thái quá, tinh thần luôn thoải mái dù khó khăn cận kề. Trong cuộc sống, lạc quan luôn là người bạn đồng hành của mỗi chúng ta để đưa chúng ta vượt qua những khó khăn thách. Làm việc gì, dù khó khăn tới đâu thì người lạc quan vẫn tin vào những điều tốt đẹp ở phía trước. Khi gặp thất bại họ vẫn không bỏ cuộc, không chán nản mà ngược lại sự lạc quan làm tăng cơ hội thành công. Lạc quan là kẻ thù của uỷ mị, yếu đuối thì chắc chắn sự lạc quan chính là bạn hành trình của con người trên con đường tới tương lai. Hãy loại bỏ mọi nguồn tin mang tính tiêu cực. Hãy tránh xa những người thường xuyên kêu ca phàn nàn. Hãy đón nhận những tin tích cực để luôn có suy nghĩ tích cực. Như vậy, lạc quan đã góp phần tăng giá trị cho bản thân và xã hội!

Câu 3: Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp

CƠN ĐAU DÀI

(Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng)

Tóm tắt tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”

Mùa lá rụng trong vườn kể về gia đình ông Bằng, một nhân viên bưu điện đã nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông Bằng có năm người con trai. Anh cả Tường đã hi sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Đông là anh hai, trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản; Lí, cô con dâu đảm đang, nhanh nhẹn. Con trai thứ ba của ông là Luận, một nhà báo có nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Người con thứ tư – Cừ, lại hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội. Cuối cùng, em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước.

Bi kịch ập tới khi Cừ bỏ việc ở xí nghiệp, trốn ra nước ngoài, bỏ lại vợ và hai con nhỏ.

Sau khi trốn sang Canada, Cừ mới nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn. Anh liền gửi bức thư cuối cùng về nhà trước khi uống thuốc tự tử. Nhận được thư, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát, khiến ông phải nhập viện, rồi qua đời. Đồng thời, vợ và hai con trai của Cừ vô cớ bị sa thải khỏi nông trường, phải đến ở nhờ nhà ông Bằng, rồi nhà chị Hoài. Trước tình cảnh khó khăn, Luận, Phượng và Hoài đã tỏ rõ mình là những người có tinh thần trách nhiệm cao đẹp, thương người như thể thương thân.

Lí chán chường khi sống cạnh Đông, nên khi ông trưởng phòng ở cơ quan dụ dỗ, Lí đã đi công tác Sài Gòn gần tháng trời với ông ta, hưởng lạc, bỏ bê gia đình. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà, chị mới nhận ra lỗi sai của mình, viết thư tỏ ý muốn quay trở về. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người nhận được thư của Lí.

Đoạn trích sau là chương 18 của tác phẩm "Mùa lá rụng trong vườn"

 (1)... đêm đêm Luận nằm ngủ có lúc giật mình tỉnh giấc. Quả khô, cành khô rụng lá trên mái nhà như chạm vào nỗi xôn xao thương nhớ. Đông co ro trong giá lạnh. Đã thôi chửi đời và thôi nguyền rủa Lí. Nhưng nỗi đau thì mỗi ngày một ngấm thêm. Đông hiểu, anh vừa mất đi một cái gì hệ trọng và thân thiết quá. Lần giở từng trang đời đã xa, anh nghiệm ra: Lí có nhiều thói xấu, nhưng sống bên chị, về cơ bản, anh vẫn thoải mái, yên vui. Chị là sắc màu, là nhịp điệu đời sống lúc nào cũng lấp lánh, tưng bừng bên anh. Với anh, chị là một người mẹ, một người chị tận tình.

Gian buồng, căn nhà, khu vườn còn nhắc nhở bao kỉ niệm thiết tha, còn vang ngân tiếng chị, còn lưu giữ vẹn nguyên bóng hình chị. Khi bị mất rồi, anh mới hiểu biết giá trị của cái không còn. Đau đớn ngấm đến tận nơi sâu thẳm nhất, anh lại nổi cơn khùng, nhưng lần này ngấm ngầm và chỉ trút nỗi căm hờn vào kẻ đã quyến rũ vợ anh – gã Trưởng phòng Vật tư khốn nạn.

Trong bữa cơm với gia đình Luận, Đông có nói tới gã trưởng phòng nọ với lời đe doạ: nó gây gió, nó phải chịu bão. Luận giật mình thấy mắt Đông lúc ấy mất hết thần sắc y như khi Đông túm cổ áo Luận và lúc nói sẽ bắn chết thằng Cừ.

Phượng lo lắng bảo chồng: “Anh Luận, nên trông nom, theo sát anh Đông, ngộ nhỡ có chuyện gì..” Luận lên ở cùng buồng với Đông, anh muốn khuây khoả và kiềm chế ông anh: con người quen sống giản lược, bị dồn vào bức bách dễ manh động bột phát lắm.

Một buổi chiều, hai người ngồi uống nước và nghe nhạc Vácne. Bỗng Đông hỏi:

– Nhạc Vácne hùng tráng đấy chứ, có gì mà ông cụ không thích nhỉ?

– Chỉ vì nghe em nói Hitle nó thích nhạc ông này thôi. – Luận đáp. – Anh thấy không, ông cụ là người có học còn vậy. Con người có những định kiến cố định, phá vỡ, đổi thay không dễ đâu.

Đông im, như nghĩ ngợi. Lát sau, Luận tiếp:

- Con người vượt ra khỏi cái quy định là rất khó. Em không muốn nói ngoại cảnh, thời đại, mà nói cái đã bị quy định ở trong mỗi con người.... Chị Lí cũng vậy. Chị là nạn nhân của chính mình. Và anh, anh nên rút kinh nghiệm.

Nói cái ý cuối cùng, Luận đã đắn đo mãi. Luận nghĩ: “Đông đã bình tâm, nên nói để Đông xem xét lại mình và tìm cách cứu vãn tình hình. Nhưng, Đông vụt đứng dậy:

- Chẳng lẽ tôi là thằng khốn nạn à?

- Anh không hiểu ý em.

- Tôi, mấy chục tuổi Đảng, tuổi quân, có mặt ở chiến trường suốt hai cuộc kháng chiến, tôi là thằng đểu giả, lừa lọc, phản bội, lưu manh, côn đồ à? Vì chịu ảnh hưởng của tôi mà cô ấy hư hỏng à?

Đông nói dồn dập gay gắt và vẫn không vượt được ra khỏi sự sơ lược trong suy nghĩ. Luận ngắt lời anh, giọng hơi bực:

- Không ai trẻ con, ngu dốt đến mức quy kết như thế! Anh tốt, nhưng anh chưa đủ những đức tính cần thiết. Cuộc sống phức tạp. Nhưng phải sống thực sự với nó, phải có trách nhiệm với nó, vì nó. Nói cụ thể là phải có trách nhiệm với cả từng con người. Càng ngày mỗi cá thể càng nổi lên, có vị trí quan trọng vô cùng trong cuộc sống.

Đang trong cơn phẫn khích, Đông không kìm được, cắt ngay lời Luận:

- Chỉ có vấn đề, nếu nói từ gốc, là tôi chọn nhầm thôi. Cậu lí luận đặc sệt sách vở. Chiến tranh, tất cả tâm lực phải dành cho việc đánh giặc. Người ở nhà phải tự lo lấy. Cô ấy hư đốn lẽ nào tôi phải chịu trách nhiệm?

Đông lại phải tuột những ý nghĩ tốt đẹp về Lí, lại rơi vào trạng thái thần kinh căng thẳng. Lại văng ra lời chửi rủa Lí, gã trưởng phòng và các thói tệ tư sản. Lát sau, những mặc cảm nhục nhã trỗi dậy, cay nhức tâm trí anh, anh rơi hẳn vào cuồng nộ.

Đến cao điểm, Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc và giọng lạc đi:

Cậu mà con bênh con đĩ ấy hả? Trời ơi sao tôi không chết luôn lúc tiến đến cửa ngõ Sài Gòn cho rồi!

Luận ứa nước mắt vì câu kêu trời đau đớn ấy của Đông. Đông đứng lặng, to lớn, run rẩy, đầu bạc phếch, nước mắt xối trên hai gò má xám.

(2) Chính lúc ấy, Phượng ra mở cổng vì có tiếng chuông gọi. Người gọi cổng chào Phượng, tự giới thiệu là Cán bộ Tổ chức xí nghiệp Lí cần gặp chồng Lí vì một việc rất cần kíp.

Đông vội lau mặt, Luận sửa soạn ấm chén xong, quay vào cái tủ sách, tiếp tục xếp dọn tư liệu, sách vở của cha. Đúng như Luận dự đoán, anh cán bộ Tổ chức sau khi hỏi qua về quan hệ vợ chồng Đông – Lí, nhìn thẳng vào mặt Đông, giọng thật nghiêm trang:

- Xin báo để anh biết, hiện giờ chị Lí sống chung như vợ chồng chính thức với một người đàn ông. Anh này nguyên là Trưởng phòng Vật tư đơn vị chúng tôi, vừa rồi đã bị chúng tôi khởi tố vì tội tham ô. Nay, tình hình như vậy, chúng tôi quyết định kỉ luật sa thải chị ấy. Về việc này gia đình ta có ý kiến gì không? Đang quay mặt vào cái tủ sách, vờ như đang xếp dọn, để dõi theo câu chuyện,

Luận quay phắt ngay lại, vai đập đánh thình vào cánh tủ, cố kìm giữ để khỏi bật tiếng kêu kinh sợ. Anh càng kinh sợ hơn khi nhìn thấy Đông như bất động trong lòng ghế, bàn tay dày xoè rộng úp vào mặt, trong khi hai ngón cái và ngón trỏ bấm chặt vào hai bên thái dương. Đông đang tê dại trước một sự phũ phàng. Trong Luận lại vang lên lời kêu gào thống thiết: Anh Đông phải có ý kiến ngay đi! Không thể xử lí như vậy được!

Mặt Đông nùng nục bỗng nghiêm lại một cách ngờ nghệch, biến thái của cơn đau thất thần, lạc trí và mỗi Đông hé mở, thoát ra một giọng nói gần như tuyệt vọng:

– Cái đó thì... tuỳ các đồng chí thôi!

Luận run hết cả người lên, vừa lo sợ vừa giận dữ, Luận chỉ muốn nhảy lại quát tướng vào mặt Đông và anh cán bộ nọ. Sao các anh lại quyết định một việc hệ trong như thế trong khi thần kinh các anh không bình thường. Và anh Đông, qua sự việc này, tôi có thể nói anh là một kẻ vô trách nhiệm hoàn toàn!

Luận lao xuống gác, đuổi theo người cán bộ nọ, tâm não bừng bừng trong cơn gào thét dữ dội và âm thầm:

- Đồng chí ơi, chính tôi đã nghe thấy các đồng chí ở xí nghiệp khen ngợi chị

Lí hết mực. Tội trạng chị ấy chưa đáng đến mức kỉ luật ấy. Xử lí chị ấy như vậy là dứt khoát đẩy chị ấy xuống bùn, là cắt đường trở về của chị ấy. Đồng chí không nên căn cứ vào ý kiến của anh Đông. Anh ấy lúc này còn đâu là sáng suốt! Các đồng chí nên gặp chị Lí một lần nữa đi.

Nhưng người cán bộ nọ đã đi.

(3) Quay vào khu vườn, phong phanh một chiếc áo len mỏng mà người Luận nóng bừng. Lòng giận sôi lên, anh ngước lên nhìn buồng Đông. Đông vừa bật đèn. Đông vừa vặn máy hát. Không! Không thể hời hợt và vô trách nhiệm như thế! Con người thông minh và đần độn, mạnh mẽ và yếu ớt thảm hại. Dưới tác động của một ngẫu nhiên bất hạnh rất nhỏ thôi, đời một con người cũng có thể xoáy lật ngược chiều tức khắc. Con người, cần phải được thể tất, cần phải đỡ nâng, dắt dìu. Ngay ngày mai Luận phải đến cái xí nghiệp ấy để phản bác cái quyết định tắc trách của họ với Lí. Đời Lí lại thêm một hiểm hoạ, phải nhanh tay cứu chị ấy.

Lúc ấy, Phượng vừa tưới rau và vun cây quất xong. Chị ghếch cái cán cuốc vào thân cây táo, hồi hộp lo lắng vì thấy Luận mắt đăm chiêu vừa từ cổng đi vào, ngồi xuống cái ghế đá và úp mặt vào hai lòng bàn tay.

- Anh Luận. Anh vào ăn cơm đi.

– Phượng à... anh buồn quá, em ạ.

Luận ngẩng lên. Ngước theo hai cánh tay Phượng vừa nâng từ từ lên cao, vòng ra sau gáy, vơ mái tóc cặp lại, anh nhận ra hai cánh tay Phượng mảnh dẻ quá, gầy guộc quá, tiều tuỵ quá. Nao dậy trong anh nỗi lo thắt ruột gan: Phượng đã có mang được ba tháng.

– Anh Luận ạ, số tiền ông để lại ba nghìn. Tang lễ cho cụ mất một nghìn rưởi. Còn một nghìn rưởi. Em định gửi cho mẹ con thằng Quân anh, Quân em. Không thấy Luận đáp, chị hiểu chồng chị đang phân tâm và chính chị đang sốt ruột muốn biết người ở xí nghiệp Lí mang tin gì đến.

Luận quay lại, lẫn trong tiếng thở dài: Chị Lí bị sa thải rồi, em ạ. Phượng bỗng thấy rét run. Có cảm giác nỗi sợ hãi truyền kiếp vừa phát sinh từ bóng tối hư huyền trong khu vườn đang ám ảnh chị, làm chị nổi gai và gây gây như là lên cơn sốt. [...].

(Ma Văn Kháng, Mùa lá rụng trong vườn, NXB Trẻ, 2011)

(*) Tên văn bản do nhóm biên soạn đặt.

* Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn) là một nhà văn nổi bật của nền văn học đương đại Việt Nam nửa năm sau thế kỉ XX, đặc biệt từ khi bắt đầu thời kì Đổi mới.

1. Tóm tắt (từ 3-5 dòng) văn bản Cơn đau dài và cho biết vị trí, vai trò của văn bản đối với tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn (0,5đ)

2. “Đặc điểm nổi bật nào của thể loại tiểu thuyết thể hiện trong văn bản Cơn đau dài”? Hãy phân tích đôi nét làm rõ đặc điểm đó? (0,5đ)

3. Vì sao Đông rơi vào trạng thái đau đớn? Phân tích tính cách tiêu biểu của nhân vật Đông; từ đó, nêu những đánh giá của tác giả, của em về nhân vật này (0,5đ)

4. Em hãy đánh giá thành công đặc sắc của văn bản Cơn đau dài (nội dung, hình thức). Hãy trả lời bằng văn bản (tùy chọn hình thức đoạn nhỏ/ văn bản nhỏ) (0,5đ)

5. Nhà văn muốn nói điều gì với độc giả qua 2 lời nói, suy nghĩ sau đây của nhân vật Luận? Từ đó hãy nêu bức thông điệp em nhận được từ văn bản đọc hiểu trên

Đáp án:

1.

- Đông nghĩ về Lí, trò chuyện, tranh luận với Luận về Lí và cho rằng Lí hư hỏng không có lỗi của mình. Cơ quan Lí đến thông báo: Lí ăn ở với tên tưởng phòng vật tư nên bị sa thải. Đông đau đớn tột cùng và chấp nhận sự thật, Luận buồn bã, thương Lí và muốn cứu Lí trong tuyệt vọng

- Văn bản Cơn đau dài nằm ở gần cuối tác phẩm phản ánh một bi kịch gia đình ông Bằng và vợ chồng Đông Lí, thể hiện tính cách, nỗi đau của nhân vật Đông Lí

2.

- Nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư; quan tâm đến cái thường ngày, cái đang diễn biến với cách tiếp cận gần gũi; không lí tưởng hóa hiện thực;

+ Cái đang diễn biến với cách tiếp cận gần gũi: việc cơ quan Lí đến thông báo sa thải Lí, ứng xử của Đông và ý nghĩ của Luận)

- Nhân vật là “con người nếm trải”, có quá trình phát triển nhiều khi quanh co, phức tạp: diễn biến tâm lí của Đông (đang nghĩ tốt đẹp về Lí; hùng hổ gọi Lí là con đĩ; đau đớn tột cùng, chỉ biết ôm mặt)

- Phản ánh mâu thuẫn, tâm lí và xung đột giữa các quan điểm: cách nhìn đời bao dung, sâu sắc của Luận và cách nhìn đơn giản lược của Đông. Ông Bằng không thích nhạc Vácne chỉ vì nghe Luận nói Hít – le cũng thích nhạc ông này

3.

- Vì Lí rất thân thiết với Đông, anh nhìn thấy những ưu điểm của Lí nên khi bị mất rồi, anh mới hiểu giá trị của Lí. Đau đớn ngấm đến tận nơi sâu thẳm nhất, anh lại nổi cơ khùng; vì Luận nói về Lí và trách nhiệm của Đông về sự thay đổi của Lí

- Nhân vật Đông:

+ Người lính trở về từ chiến trận, nhìn con người hết sức đơn giản: Chiến tranh, tất cả tâm lực phải giành cho việc đánh giặc. Người ở nhà phải tự lo lấy

→ Đông cho rằng Lí hư là tại cô ấy, không phải do chồng, Đông quan niệm chưa đúng về mối quan hệ, sự ràng buộc vợ chồng, trong gia đình

+ Đông là người thô lỗ, cục cằn: chửi rủa Lí, gã trưởng phòng và các thói tệ tư sản

+ Đông đang nếm trải nỗi đau và rơi vào bế tắc đau đớn: Trời ơi sao tôi không chết luôn lúc tiến đến cửa ngõ

- Đánh giá của tác giả về Đông: Đông nói dồn dập, gay gắt và vẫn không vượt được ra khỏi sự sơ lược trong suy nghĩ; Anh tốt nhưng anh chưa đủ những đức tính cần thiết. Cuộc sống phức tạp. Nhưng phải sống thực sự với nó, phải có trách nhiệm với nó, vì nó → Tác giả phê phán ứng xử và suy nghĩ của Đông qua lời người kể chuyện và qua Luận. Chính Đông đã để tuột mất hạnh phúc gia đình và bây giờ chính Đông phải chịu nỗi đau đó

- Đánh giá của cá nhân: Học sinh tự trả lời theo quan điểm cá nhân

4.

– Nội dung:

+ Phản ánh số phận con người trong những mối quan hệ cuộc sống phức tạp với tất cả những mâu thuẫn, tâm lí và xung đột gay gắt trong lối sống, quan điểm sống qua nhân vật Đông, Luận;

+ Truyền tải nhiều thông điệp về cách nhìn nhận đánh giá con người, ứng xử khi người thân lầm lỡ; sống có trách nhiệm (qua nhân vật Luận).

– Nghệ thuật:

+ Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật – nỗi đau, sự bế tắc, bất lực, lối sống thờ ơ của Đông qua sự luân chuyển của các điểm nhìn trần thuật (bên trong, bên ngoài, người kể chuyện, nhân vật) với những khúc quanh phức tạp; qua đối thoại, độc thoại, biểu hiện bên ngoài (Đau đớn ngấm đến tận nơi sâu thẳm nhất, anh lại nổi cơn khùng, nhưng lần này ngấm ngầm và chỉ trút nỗi căm hờn vào kẻ đã quyến rũ vợ anh. Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc và giọng lạc đi. Đông đứng lặng, to lớn, run rẩy, đầu bạc phếch, nước mắt xối trên hai gò má xám; Đông như bất động trong lòng ghế, bàn tay dày xoà rộng úp vào mặt, trong khi hai ngón cái và ngón trỏ bấm chặt vào hai bên thái dương. Đông đang tê dại trước một sự phũ phàng; Đông vừa bật đèn. Đông vừa vặn máy hát.).

+ Khắc hoạ nhân vật: Nhân vật Lí chỉ hiện lên gián tiếp mà rất rõ nét (ưu điểm, nhược điểm, cảnh ngộ hiện tại) qua suy nghĩ của Đông và đối thoại của Đông Luận và một sự việc (người của cơ quan đến thông báo sa thải).

5.

- Nhà văn muốn nói:

a. Xã hội phức tạp, có khả năng làm tha hóa con người, con người cá nhân đòi hỏi được đề cao, vì vậy, mỗi người cần có trách nhiệm với cuộc sống, với người thân của mình

b. Con người thông minh, đần độn đều chịu nhiều tác động của xã hội khiến cuộc sống phải đối mặt với biến động, thất bại nên cần được tha thứ, đỡ nâng, dắt dìu

- Bức thông điệp: Học sinh tự đúc rút (cần sát với nội dung của văn bản: cách nhìn nhận đánh giá con người, ứng xử khi người thân lầm lỡ; sống có trách nhiệm…)

Câu 4: Đọc văn bản sau:

Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống mặt giấy như thể gõ nhịp:

- Chị đã nghe rõ ý kiến của anh Sài chưa?

- Tôi nghe rõ rồi ạ.

- Chị có ý kiến gì về tài sản và con cái.

- Về tài sản, tuỳ toà quyết định như thế nào tôi cũng xin chấp hành. Riêng phần con: Cháu Giang Minh Thuỳ không phải là con của Sài.

- Chị có chứng cớ.

- Chứng cớ là tính từ ngày chúng tôi đi lại với nhau đến khi sinh cháu có bảy tháng ba ngày.

- Chị sinh cháu thứ hai cũng không được đủ tháng.

- Vâng, nhưng cháu Thuỳ nặng 3,2 Kg không có biểu hiện gì của sự thiếu tháng.

- Đã bao giờ chị cho anh Sài biết chuyện này chưa?

- Chưa.

- Chị nói tiếp.

- Vâng. Nguyện vọng của tôi là anh Sài không được phép nuôi cháu Giang Minh Thuỳ.

- Nhưng chị cũng xác nhận anh ấy là người vất vả chịu khó nuôi con.

- Thưa toà. Vì không phải là dòng máu của mình, nhất là đến hôm nay anh Sài mới biết chuyện này, anh sẽ không đủ sức mà thương yêu, nuôi dưỡng một đứa trẻ không phải là con của mình.

Có những lúc Sài đã chạnh nghĩ đến nó nhưng không bao giờ ngờ tới những lời của Châu như lúc này. Đầu óc anh choáng váng, mắt vẫn nhìn lên mà không còn thấy gì, không nghe được Châu nói tiếp những gì. Trong anh chỉ còn những hình ảnh con […], hàng tháng trời ngồi thâu đêm giữ kim và ôm con cho vợ ngủ. Những lời thông minh hóm hỉnh đầy tình cảm của nó: “Thuỳ thương bố nhất. Nhớn lên Thuỳ sẽ đi bán kem cho bố tha hồ ăn nhỉ”- “Sao mắt bố chảy nước? Bố khóc, Thùy buồn lắm”

[…]

Chiều hôm đó còn đồng nào trong túi Sài mua hết bánh kẹo cho các con. Anh bế và hôn lên khắp người mỗi đứa. Anh khoác chiếc ba lô có cái màn và mấy bộ quần áo nói với các con: “Bố đi công tác xa”. Rồi vội vã bước ra khỏi nhà. Với bộ mặt lạnh lẽo cay độc Châu vẫn nhìn anh như kẻ thù nhưng đến khi anh đi khỏi, hai đứa trẻ khóc oà chạy theo bố, cô cũng gục đầu xuống gối nức nở. Cho đến khi hai con chạy vào mỗi đứa một bên mếu máo lay gọi mẹ thì những ngừơi ở khu tập thể đã đứng đầy phía ngoài. Nhìn qua khe cửa thấy cảnh ba mẹ con kêu khóc trên một chiếc giường, nước mắt ai cũng muốn rào ra, ai cũng muốn kêu to lên với những chàng trai, cô gái rằng: Các người hãy cứ yêu nhau say đắm và mê mẩn rồi lại cắn xé nhau như chó mèo đi. Tất cả đều là quyền của các người. Nhưng đừng có kẻ nào dã man tạo ra những đứa trẻ để lại trút lên cái cơ thể bé bỏng ngây thơ của nó những tội lỗi sinh ra từ lòng ích kỷ không cùng của các người.

(Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Văn học, 2022)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

1. Điều gì xuất hiện trong ý nghĩ của Sài khi biết Thùy không phải là con trai mình?

2. Xác định điểm nhìn của người kể chuyện trong đoạn văn bản sau:

“Nhìn qua khe cửa thấy cảnh ba mẹ con kêu khóc trên một chiếc giường, nước mắt ai cũng muốn rào ra, ai cũng muốn kêu to lên với những chàng trai, cô gái rằng: Các người hãy cứ yêu nhau say đắm và mê mẩm rồi lại cắn xé nhau như chó mèo đi. Tất cả đều là quyền của các ngừơi. Nhưng đừng có kẻ nào dã man tạo ra những đứa trẻ để lại trút lên cái cơ thể bé bỏng ngây thơ của nó những tội lỗi sinh ra từ lòng ích kỷ không cùng của các người.”

3. Qua sự chuyển biến tâm lí, hành động của Sài trong đoạn văn bản trên, anh/chị thấy Sài là người như thế nào?

4. Nhận xét của anh/chị về sự chuyển biến trong lời kể ở đoạn văn bản trên.

5. Hình ảnh hai đứa trẻ khi phải chứng kiến cảnh bố mẹ li hôn trong văn bản gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì?

Đáp án:

1. Điều xuất hiện trong ý nghĩ của Sài khi biết Thùy không phải là con trai mình:

- Trong anh chỉ còn những hình ảnh con […], hàng tháng trời ngồi thâu đêm giữ kim và ôm con cho vợ ngủ.

- Những lời thông minh hóm hỉnh đầy tình cảm của nó“Thuỳ thương bố nhất. Nhớn lên Thuỳ sẽ đi bán kem cho bố tha hồ ăn nhỉ”- “Sao mắt bố chảy nước? Bố khóc, Thùy buồn lắm”

2. Điểm nhìn của người kể chuyện trong đoạn văn bản: Điểm nhìn bên ngoài của những người hàng xóm/cả thiên hạ/người đời.

3.

- Chuyển biến tâm lí, hành động của Sài:

+ Khi ở trên tòa nghe vợ thừa nhận Thùy không phải con trai mình: Trong tâm trí hiện ra những hình ảnh Sài chăm sóc vợ con và con thì quấn quýt yêu thương bố.

+ Khi quyết chọn li hôn: Mua kẹo cho con và dứt khoát ra đi.

- Nhận xét:

+ Sài là người tràn đầy tình yêu thương đối với con, dù trong thâm tâm anh đã có nghi ngờ vợ.

+ Anh luôn mang trong mình lòng tự trọng của một người lính.

+ Sài không cay cú, tức tối, hận thù; dù li hôn nhưng không muốn gây thương tổn cho con.

+ Anh cao thượng, vị tha, sẵn sàng chấp nhận những đau đớn, thiệt thòi, hi sinh,...

4. Nhận xét về sự chuyển biến trong lời kể ở đoạn văn bản trên.

- Sự chuyển biến trong lời kể ở đoạn văn bản trên:

+ Phần đầu đoạn văn bản chủ yếu là đối thoại trực tiếp.

+ Phần tiếp theo là những suy nghĩ của Sài, tác giả viết bằng lời nửa trực tiếp.

+ Phần cuối đoạn văn bản, tác giả kể bằng lời người kể chuyện, có đan cài thêm lời nhại.

- Nhận xét: Lời kể linh hoạt, tạo sự sinh động, hấp dẫn lôi cuốn khiến cho câu chuyện thêm gần gũi và trở nên chân thật, khách quan, tác động sâu sắc đến độc giả.

5.

- Hình ảnh hai đứa trẻ khi phải chứng kiến cảnh bố mẹ li hôn: hai đứa trẻ khóc oà chạy theo bố, chạy vào mỗi đứa một bên mếu máo lay gọi mẹ

- Hình ảnh hai đứa trẻ khi phải chứng kiến cảnh bố mẹ li hôn, gợi lên những trăn trở, băn khoăn, day dứt:

+ Là những đứa trẻ, đáng ra chúng phải được nhận yêu thương của cả cha lẫn mẹ.

+ Chúng ngây thơ không thể hiểu được lí do người lớn rời xa nhau, nhưng chính chúng phải chịu những thiệt thòi, tổn thương.

+ Chúng sẽ phải lớn lên trong sự thiếu thốn đặc biệt về mặt tình cảm mà không có bất kì phương thuốc nào có thể xoa dịu,...

Câu 5: Đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi sau:

Đầu canh hai, trăng từ từ mọc lên bên kia dải rừng, to như một cái nong. Tôi mở mắt ra, sờ tay thấy sương thấm ướt khắp người. Trong lớp sương đục nhờ nhờ, vầng trăng đỏ như một cái lòng đỏ trứng khổng lồ. Càng lên cao, trăng càng bé lại. Nhìn qua be xuồng, thấy nước gợn lăn tăn... Tôi vừa thiu thiu chợp mắt lại, bỗng nghe thằng Cò vụt nhổm dậy:

- Dậy mau! Dậy mau? Dính một con rồi

- Tao vừa thức đây mà. Có thấy cái quái gì đâu

- Mày biết cái con khỉ gì? - Nó quát tôi.

Tôi lập tức đánh diêm thắp ngọn đèn soi. Tay tôi run quá, tim cứ đập thình thình. Thằng Cò ấn cây giầm vào tay tôi, ra hiệu cho tôi chống xuồng tới. Nó cầm cái mác trong tay, một tay đưa đèn lên soi phía trước. Ồ, kia rồi?

Tàu lá dừa nước bị ai kéo cứ dập lên dập xuống, làm nước bắn tung tóe. Tiếng dây câu nghiến kìn kịt trong tiếng lá dập xuống nước nghe kinh quá. Tôi kêu oái một tiếng, đứng chết sững. Một con rắn rằn ri cóc to cỡ bắp chân người lớn đang vung vẩy uốn mình lên quấn lấy chùm dây câu. Cái miệng nó há ra, đầy răng chơm chởm. chỗ ngạch lưỡi câu mắc bên mép, máu chảy giọt giọt xuống nước. Mỗi lần con rắn vặn mình cố siết cho đứt chùm dây câu, da nó nở ra, vồng lên như gai mít. Thằng Cò buông mác, thò tay nắm đuôi con rắn. Con rắn tháo ra, quấn một khúc vào tay thằng Cò. Thằng Cò chộp ngang lưng con rắn, bàn tay nó bé quá tuột ra vì không nắm hết. Con rắn càng gồng mình siết chặt cổ tay thằng Cò. Mồ hôi tươm ra ướt trán, chảy ròng ròng xuống má, nó bậm môi, cứ mặc thế, ngửa người ra sau lôi nguyên con rắn mắc câu vào xuồng.

- Coi chừng nó cắn chết à, Cò - Tôi thè lưỡi nhích ra xa.

Cắn quái gì nữa! Mà thứ rắn này cắn cũng như chó cắn thôi. Đưa miệng giỏ lại đây, mau mau đi. Tôi kê miệng giỏ hứng con rắn. Thằng Cò ghé răng cắn chót đuôi con rắn một cái, con rắn đau quá vội tháo khỏi cổ tay thằng Cò, tuột gọn vào lòng giỏ. Thằng cò một tay đậy nắp, một tay chụp cái mác chặt hai đầu sống lá. Cả khúc sống lá chùm dây câu và con rắn đảo lộn, quẫy soạn soạt trong giỏ.

- Hì.. hi... Da con này lột ra phơi, bán bộn tiền. Mai chúng mình bảo má nấu nồi ca-ri ăn chơi?

Con rắn to nhưng cái đầu nó chỉ bé bằng quả bàng thôi. Hai con mắt đục lừ lừ nhìn ngọn đèn soi. Thằng Cò hé nắp giỏ chộp cổ con rắn tháo lưỡi câu ra, lôi khúc sống lá dính chùm dây câu ra khỏi giỏ rồi thong thả đậy nắp, gài chốt lại.

- Để tao thử con rắn cho mày coi - nói xong nó thọc một ngón tay vào mắt giỏ gãi gãi lên lưng con rắn. Khi con rắn quay ngoắt lại toan mổ vào ngón tay thì thằng Cò đã rụt ngón tay ra rồi.

- Cu cậu bị ớt cay, sưng cả miệng đấy, mày thấy không? Vậy, mình mới dễ bẻ răng. Mà nó cũng chẳng cắn mổ gì được nữa...

Tàu lá đằng kia rung lên sàn sạt. Thằng Cò reo lên:

- Sướng rồi? Dính một con nữa rồi!

Tôi chụm chân nhẩy đồm độp trên xuồng, làm chiếc xuồng nghiêng qua lắc lại tí nữa là chìm.

- Ấy là nhờ mình buộc chùm dây câu vào sống lá, phải không Cò? Chứ đến cần câu to bằng cật tre đi nữa thì nó nhổ lên và lôi đi tuột, mày nhỉ!

Con này của mày đó, An nhá? Của mày buộc câu mà.

- Ừ tao làm cũng được, khó gì mấy. Nhưng mà... con này mày cứ bắt nữa đi, Cò ạ. Để tao xem mày bắt vài trận nữa đã. Chừng có con khác mắc câu, tao bắt thử cho mày coi, có được không?

Tàu lá đang bị kéo ghì xuống nước bỗng bật tung trở lên.

Thôi chết cha tôi rồi, An ơi! Mày buộc làm sao mà nó mới kéo có mấy cái đã tuột luốc rồi!

Tôi không biết nói ra sao, tay buông giầm rơi xuống xuồng cái độp, nhìn theo những giọt nước từ trên tàu lá đổ xuống ròng ròng, tiếc ngẩn tiếc ngơ.

(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, 2012)

1. Xác định ngôi kể trong đoạn văn bản trên.

2. Liệt kê những hành động của Cò khi bắt rắn.

3. Cuộc trải nghiệm của hai bạn nhỏ giúp anh/chị hiểu gì về Đất rừng phương Nam?

4. Cách tác giả chọn nhân vật để đặt điểm nhìn có tác dụng gì?

5. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý nghĩa của sự trải nghiệm?

Đáp án:

1. Ngôi kể trong đoạn văn bản trên: Ngôi thứ nhất.

2. Những hành động của Cò khi bắt rắn: thò tay nắm đuôi con rắn; chộp ngang lưng con rắn; ngửa người ra sau lôi nguyên con rắn mắc câu vào xuồng; ghé răng cắn chót đuôi con rắn một cái.

3.

- Trải nghiệm của hai bạn nhỏ: Đi bắt rắn.

- Đi bắt rắn gợi ra một trải nghiệm sông nước có phần mạo hiểm với người lần đầu như An nhưng cũng đầy thôi thúc.

- Chính trải nghiệm trên đã giúp người đọc hiểu thêm về Đất rừng phương Nam - một vùng đất còn hoang sơ với bao điều hấp dẫn, mới lạ, đánh thức bao khao khát khám phá trong mỗi người,...

4.

- Nhà văn đặt điểm nhìn vào nhân vật An:

+ An là một nhân vật trong truyện chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại.

+ Nhân vật An lần đầu trải nghiệm, được chứng kiến sự thuần thục của Cò khi đi bắt rắn.

- Tác dụng:

+ Tăng tính sinh động, cuốn hút, tự nhiên, khách quan, chân thật cho câu chuyện.

+ Điểm nhìn thể hiện cái bỡ ngỡ nhưng cũng đầy những háo hức, tò mò, thích thú, say mê và ngưỡng mộ của nhân vật về một vùng đất còn hoang sơ, đầy mới mẻ, khơi gợi những khám phá, phát hiện của con người,...

5.

- Trải nghiệm đem lại hiểu biết và kinh nghiệm thực tế; giúp chúng ta mau chóng trưởng thành về cách nghĩ, cách sống, bồi đắp tình cảm, tâm hồn, giúp mỗi người gắn bó và góp phần cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.

- Trải nghiệm giúp mỗi người khám phá chính mình để có những lựa chọn đúng đắn và sáng suốt cho tương lai.

- Trải nghiệm giúp mỗi người dấn thân, thử nghiệm để sáng tạo; biết cách vượt qua những trở ngại khó khăn, tôi luyện bản lĩnh, ý chí để thành công.

- Trải nghiệm góp phần làm cho cuộc sống của mỗi người thêm giàu có, phong phú, có ích,...

Xem thêm các bài viết về định nghĩa và khái niệm môn Văn chọn lọc, hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học