Sử thi là gì (chi tiết nhất)
Bài viết Sử thi là gì chi tiết nhất, đầy đủ khái niệm, đặc điểm, cách đọc hiểu & bài tập có đáp án chi tiết giúp bạn nắm vững kiến thức trọng tâm về Sử thi.
Sử thi là gì (chi tiết nhất)
1. Khái niệm sử thi
Sử thi là một thể loại tự sự dân gian ra đời từ thời cổ đại, thường kết hợp lời thơ và văn xuôi, kể lại những sự kiện quan trọng trong đời sống của cộng đồng, thông qua việc tôn vinh, ca ngợi chiến công, kì tích của người anh hùng.
2. Đặc điểm của sử thi
- Thời gian – không gian sử thi: Thời gian sử thi thuộc về quá khứ “một đi không trở lại” của cộng đồng”, thường gắn với xã hội cổ đại hoặc xã hội phong kiến. Không gian sử thi thường mở ra theo những cuộc phiêu lưu gắn với các kì tích của người anh hùng.
- Nhân vật anh hùng sử thi: Nhân vật anh hùng sử thi hiện thân cho cộng đồng, thường hội tụ những đặc điểm nổi bật như:
a. Sở hữu sức mạnh, tài năng, lòng dũng cảm phi thường
b. Luôn sẵn sàng đối mặt với thách thức, hiểm nguy.
c. Lập nên những kì tích, uy danh lẫy lừng.
- Cốt truyện sử thi được tổ chức theo quan hệ xung đột giữa con người với thần quyền, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Các sự kiện xoay quanh cuộc phiêu lưu và những kì tích của nhân vật chính. Yếu tố kì ảo có tác dụng tạo ra tình huống, vừa thử thách vừa tô đậm phẩm chất của người anh hùng.
- Lời của người kể chuyện và lời của nhân vật sử thi: Trong văn bản sử thi, lời của người kể chuyện thường ở ngôi thứ ba, thể hiện thái độ tôn vinh, ngợi ca người anh hùng có công với cộng đồng. Lời của nhân vật người anh hùng thể hiện hành động, tính cách anh hùng, thường là lời đối thoại (với thần linh hoặc với nhân vật khác). Cả lời kể và lời thoại trong sử thi đều giàu chất thơ.
- Thái độ, cảm xúc của người kể chuyện: Người kể chuyện sử thi thể hiện sự trang nghiêm, thành kính đối với sự kiện, nhân vật. Sự trang nghiêm, thành kính bộc lộ cụ thể qua cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu, hình ảnh trong văn bản sử thi.
- Cảm hứng chủ đạo của sử thi: Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm văn học gọi là cảm hứng chủ đạo. Cảm hứng chủ đạo của sử thi gắn liền với tư tưởng chống thần quyền trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên và chống các thế lực đe dọa sự sống của cộng đồng. Lập trường của người kế đứng hẳn về phía nhân vật anh hùng để ngợi ca sức mạnh của cộng đồng mà sử thi tôn vinh.
- Bối cảnh lịch sử - văn hóa: Một văn bản luôn gắn liền với một bối cảnh lịch sử - văn hóa nhất định. Sử thi ra đời chủ yếu trong giai đoạn xung đột giữa con người với thần quyền, giữa các cộng đồng với nhau, giữa tinh thần tự do của con người và các trật tự của luân lí xã hội. Những vấn đề về thể chế, tập tục, nghi lễ trong kiến tạo văn hóa của các cộng đồng xưa được thể hiện khá sâu sắc trong sử thi.
3. Ví dụ một số tác phẩm sử thi
- Sử thi Đăm Săn
- Sử thi Đẻ đất đẻ nước
- Sử thi Mahabharata (Ma-ha-bà-la-đa)
- Sử thi Ramayana
- Sử thi Iliad
- Sử thi odyssey (sử thi ô - đi - xê)
4. Cách đọc hiểu một văn bản sử thi
- Khi đọc hiểu văn bản sử thi, các em cần chú ý:
+ Đọc hiểu bối cảnh và tóm tắt được nội dung chính của văn bản.
+ Nhân vật chính là ai? Nhân vật được miêu tả ở phương diện nào?
+ Biện pháp nghệ thuật nổi bật của văn bản là gì? Lời người kể chuyện và lời nhân vật được thể hiện như thế nào?
+ Liên hệ, kết nối với kiến thức và kinh nghiệm sống của bản thân để hiểu thêm câu chuyện.
5. Một số bài tập liên quan đến thể loại truyện thần thoại.
5.1. Trắc nghiệm
Câu 1: Sử thi gồm có mấy loại?
A. 1
B. 2
C. 3
D. 4
Đáp án: C
Câu 2: Các loại của sử thi bao gồm những loại nào?
A. Sử thi thần thoại, sử thi anh hùng, sử thi cổ điển
B. Sử thi anh hùng, sử thi thần thoại, sử thi cổ đại
C. Sử thi anh hùng dân gian, sử thi thần thoại, sử thi anh hùng
D. Tất cả các đáp án trên đều sai
Đáp án: C
Câu 3: Dòng nào sau đây ghi đúng khái niệm của sử thi?
A. Tác phẩm tự sự có quy mô lớn (văn vần/văn xuôi) phản ánh những hình tượng hào hùng, kì vĩ để kể về sự kiện lớn diễn ra trong cộng đồng cư dân cổ đại.
B. Là thể loại tự sự dân gian phản ánh những sự kiện lớn liên quan đến lịch sử hình thành và xây dựng cộng đồng.
C. Tự sự dân gian thể hiện nhận thức và niềm tin vào hình tượng hào hùng, kì vĩ, về sự kiện lớn diễn ra trong cộng đồng của cư dân thời cổ đại.
D. Là những câu chuyện cổ gửi gắm khát vọng giải thích và ước mơ chinh phục thế giới tự nhiên của con người từ xa xưa.
Đáp án: A
Câu 4. Những nội dung nào không được phản ánh trong sử thi là?
A. Những sự kiện, biến cố lớn liên quan đến lịch sử hình thành vũ trụ, con người.
B. Sự kiện liên quan đến phát kiến quan trọng, thành tựu văn hóa nguyên thủy.
C. Khát vọng giải thích các mối quan hệ xã hội nảy sinh và ngày càng đa dạng giữa con người với người khác và cộng đồng.
D. Những sự kiện, biến cố lớn lao trong quá trình chiến đấu bảo vệ cộng đồng, khẳng định uy danh của người đứng đầu cộng đồng.
Đáp án: C
Câu 5: Nội dung nào khu biệt sử thi với các thể loại truyện dân gian khác?
A. Thần thánh hóa tự nhiên và các anh hùng cộng đồng.
B. Lý tưởng hóa và huyền thoại hóa thần linh, hiện tượng xã hội.
C. Thần linh hóa các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
D. Tính lí tưởng: thời đại anh hùng với sức mạnh tập thể, vượt qua mọi khó khăn thử thách để phát triển.
Đáp án: D
Câu 6: Đặc điểm không gian, thời gian trong sử thi có gì nổi bật?
A. Không gian rộng lớn, thời gian không xác định, trải dài.
B. Không gian mở ra theo cuộc phiêu lưu của người anh hùng, thời gian thuộc về quá khứ của cộng đồng người cổ đại
C. Không gian vũ trụ nguyên sơ, thời gian quá khứ “một đi không trở lại”.
D. Không gian cuộc phiêu lưu của người anh hùng, thời gian vũ trụ vĩnh hằng.
Đáp án: B
Câu 7. Nhân vật chính trong sử thi có điểm gì nổi bật?
A. Là người anh hùng tập trung sức mạnh của cộng đồng, khát vọng về một trật tự xã hội hài hòa, thống nhất, chung một cội nguồn.
B. Là người anh hùng hội tụ sức mạnh của xã hội, lập nhiều chiến công, kỳ tích.
C. Là những vị thần tiêu biểu cho khát vọng và ý chí con người và những vị thần bảo trợ cho sự phát triển của cộng đồng.
D. Là những người anh hùng có sức mạnh tựa thần linh, lập chiến công lừng lẫy.
Đáp án: A
Câu 8: Cốt truyện, sự việc sử thi tập trung xoay quanh:
A. Gồm các hành động dũng cảm, lập chiến công của người anh hùng cộng đồng.
B. Xoay quanh hoạt động chinh phục thế giới tự nhiên và xã hội của con người.
C. Tổ chức theo quan hệ xung đột giữa con người với thần quyền, cộng đồng, xoay quanh kì tích của nhân vật chính.
D. Gồm các hoạt động sáng tạo thế giới, giá trị văn hóa của con người cổ đại.
Đáp án: C
Câu 9: Sau khi đọc hiểu sử thi, người đọc cần:
A. Tra cứu để hiểu thêm về bối cảnh hiện thực, vấn đề mà văn bản đề cập tới.
B. Trải nghiệm hoạt động mà người cổ sơ đề cập và thể hiện trong văn bản.
C. Biết liên hệ, kết nối giá trị đạo đức, văn hóa với thực tiễn cuộc sống, từ đó biết điều chỉnh nhận thức của bản thân.
D. Hình dung, tưởng tượng để học theo cách suy nghĩ, của người xưa.
Đáp án: C
Câu 10: Sử thi có ý nghĩa như thế nào đối với người học/người đọc hôm nay?
A. Nhận thức về khát vọng về một cộng đồng bình yên phồn thịnh.
B. Nhận thức về xã hội trong quá khứ, giá trị văn hóa của con người cổ đại.
C. Hiểu thêm và trân trọng những kỳ tích trong cuộc sống và con người cổ sơ.
D. Nhận thức về khát vọng hòa hợp cộng đồng của con người cổ sơ để điều chỉnh bản thân mình giống với cách thể hiện trong văn bản.
Đáp án: A
5.2. Tự luận
Câu 1: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
CHIẾN THẮNG MTAO GRU
(Trích “Đăm Săn”)
Họ đến giếng làng, rồi đến bờ rào làng Mtao Grư. Trước mặt họ là một bờ rào tre một lớp hai lớp. Một bờ rào lồ ô một hàng hai hàng. Cổng làng trồng hai hàng cột lớn. Họ áp sát bờ rào làng, ẩy cổng làng. Từ trong làng vọng ra tiếng ching khơk và hliang, nghe ì à, ì ọp như tiếng ếch kêu dưới nước. Rõ ràng đây là một tay tù trưởng giàu mạnh. Một tù trưởng giàu mạnh đầu bịt khăn nhiễu, vai nải hoa thật.
ĐĂM SĂN: Ơ diêng! Ơ diêng! Mở cổng! Trời nắng to mặt ta đang bị chói nắng đây này.
MTAO GRƯ: Ở các con! ở các con! Ra xem có chuyện gì ngoài ấy? Tiếng gì như tiếng gà cục tác, tiếng trẻ nhà ai đang khóc, hay tiếng đe chí chát của gã thợ rèn ở ngoài kia? Ra xem, nếu thấy người nhát thì hẵng mở cổng. Nếu thấy người dữ thì chôn cổng lại cho chắc. Nện cổng lại cho thật chặt, nghe!
ĐĂM SĂN: Ơ Y Suh, ơ Y Sah, hãy lấy những chiếc búa ăn rừng bén nhất san bằng cái bờ rào này đi nào. Hãy chặt ở dưới, bổ ở trên, phá tan cái rào, cái cổng làng này đi nào. Người của Đăm Săn đông như bầy catong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Họ đến bãi ngoài làng, tiến sát bờ rào làng.
ĐĂM SĂN: Ơ diêng, ơ diêng xuống đây! Chúng ta đấu nhau chơi.
MTAO GRƯ: Ơ diêng, ơ diêng! Mời diêng lên nhà, ta muốn làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu.
ĐĂM SĂN: Diêng còn muốn cúng trâu cầu phúc cho ta à? Há chẳng phải vợ ta diêng đã cướp, đùi ta diêng đã chặt, ruột gan ta riêng đã moi ra rồi sao? (nói với tôi tớ) Ơ các con! Bớ các con! Lấy cái sàn sân nhà này đem bổ đôi ra cho ta. Lấy cái cầu thang nhà này đem chẻ ra kéo lửa, hun cái nhà này cho ta xem nào.
MTAO GRƯ: Ấy khoan! diêng! Khoan! Để ta xuống. Không được đâm ta khi ta đang xuống đó nghe.
ĐĂM SĂN: Sao lại đâm diêng khi diêng đang xuống? Diêng xem, cả con lợn của diêng ở trong chuồng, nào ta có thèm đâm đâu.
MTAO GRƯ: Ơ diêng, ơ diêng! Không được đâm ta khi ta đang đi đó nghe.
ĐĂM SĂN: Sao ta lại đam diêng khi diêng đang đi? Diêng xem, cả con trâu của diêng ở trong chuồng, nào ta có thèm đâm đầu.
Thế là Mtao Grư phải xuống.
ĐĂM SĂN: Ở diêng! Khiên đạo của diêng là khiên đao gì vậy?
MTAO GRƯ: Khiên thần, đạo thần. Khiên đạo dính đầy những oan hồn, khiên đao chỉ nhằm đùi bọn tù trưởng nhà giàu. Ở diêng, còn khiên đạo của diêng là gì vậy?
ĐĂM SĂN: Khiên đao kêu lạch xạch, khiên đao bị mọt ăn, không biết còn vững nay không còn vững. Ơ diêng người hãy múa trước đi.
Mtao Grư rung khiên múa. Hắn múa kêu lạch xạch như quả mướp khô.
ĐĂM SĂN: Diêng múa một mình, diêng múa chơi đó phải không diêng?
MTAO GRƯ: Bớ diêng, đến lượt diêng múa đi.
Đăm Săn rung khiên múa. Chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Chàng múa chạy nước kiệu, ba lớp núi liền rạn nứt, ba đổi tranh liền bật rễ tung bay. Chàng chạy vun vút một mình không ai theo kịp. Còn Mtao Grư bước thấp bước cao, chạy trốn mũi giáo thần, mũi giáo dính đẫy những oan hồn của Đăm Săn. Hắn nhằm đòi Đăm Săn phóng cây giáo của hắn tới, nhưng chỉ trúng một con lợn thiến.
ĐĂM SĂN: Sao diêng lại đâm con lợn thiến? Còn đùi ta diêng dành làm gì? Đây, diêng hãy xem ta. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy oan hồn của Đăm Săn nhằm đùi kẻ thù phóng tới, đâm vừa trúng đích.
ĐĂM SĂN: Đùi diêng sao lại đỏ thế kia, ơ diêng?
MTAO GRƯ: Cái viền chăn của vợ hai chúng ta ở nhà đó.
Mtao Grư khập khiễng như gà gẫy cánh, lảo đảo như gà gẫy chân, vừa chạy vừa kêu oái oái ở bãi tây. Hắn tránh quanh chuồng lợn, Đăm Săn phá tan chuồng lợn. Hắn tránh quanh vườn cam, Đăm Săn phá nát vườn cam. Ba lần hắn chạy trốn về phía đông, ba lần hắn chạy trốn về phía tây, vướng hết thừng trâu đến chão voi. Cuối cùng không chạy được nữa, hắn ngã lăn quay ra đất. Đăm Săn nhảy tới giẫm lên chém đùi hắn.
MTAO GRƯ: Khoan, diêng. Hãy khoan, diêng! Để ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu.
ĐĂM SĂN: Sao lại khoan? Chân ngươi đã đứt, đùi ngươi đã gãy. Máu ngươi đã chảy lênh láng khắp xóm làng. Đầu ngươi ta sẽ vứt trong rừng tranh. Hàm người ta sẽ bêu ngoài sân cỏ, cho kiến đen kiến đỏ chúng bầu. Người to gan lớn mật. Dám coi mình cao hơn cả non xanh. Vợ ta ngươi cướp, đùi ta ngươi chém, ruột gan ta ngươi moi. Khắp người Ê-đê trên cao,
người Bih, người Mnông dưới thấp, khắp tây đông không có một ai như ngươi cả. (nói với tôi tớ) Ơ các con, ơ các con. Cái đầu hắn các con đem bêu ngoài cổng làng. Cái hàm hắn các con đem móc ngoài bãi cỏ, cho kiến đen kiến đỏ chúng bầu. (nói với dân làng Mtao Grư) Hỡi nghìn chim sẻ, hỡi vạn chim ngói. Hỡi tất cả tôi tớ có ở đây, các người có đi với ta không?
(Nguyễn Hữu Thấu sưu tầm, biên dịch, chỉnh lí, Sử thi Ê-đê, Khan Đăm Săn và Khan Đăm Kteh Milan, tập II, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003)
Chú thích:
Đăm Săn (hay còn gọi là Bài ca chàng Đăm Săn) là pho sử thi nổi tiếng của người Ê-đề. Sử thi Đăm Săn thường được diễn xướng theo lối kể khan, trong đó già làng vừa kể, hát, vừa sử dụng nét mặt, điệu bộ để diễn tả câu chuyện bên bếp lửa nhiều đêm liền, trong các nhà dài, trên chòi rẫy, vào dịp lễ hội hay lúc nông nhàn. Nghe kể khan Đăm Săn là một truyền thống văn hoá của người Ê-đê. Sau khi đã chiến thắng Mtao Grự, Đăm Săn trở nên một tù trưởng giàu mạnh, danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi. Sau những ngày ăn mừng chiến thắng, Đăm Săn đã kêu gọi cả dân làng trồng giống lúa mới và bắt đầu tìm kiếm muông thú, hải sản để phát triển cuộc sống.
Tóm tắt đoạn trích: Chiến thắng Mtao Grư thuộc phần giữa của tác phẩm: Sau khi kết duyên cùng hai chị em tù trưởng là Hơ Nhị và Hơ Bhi, Đăm Săn trở thành tù trưởng giàu có, nổi tiếng. Các thủ lĩnh (Mtao Grư và Mtao Mxay) đã lừa khi Đăm Săn cùng nô lệ lên nương, xuống sông lao động sản xuất, kéo người đến cướp phá buôn làng và bắt Hơ Nhị đi làm thuê, làm vợ. Cả hai lần Đăm Săn đều đánh trả và chiến thắng, vừa cứu được vợ, vừa sát nhập được đất đai, của cải của giặc, làm cho danh tiếng của chàng ngày càng nổi tiếng, bộ tộc ngày càng giàu có, đông đúc... Sau đó Đăm Săn cùng những người nô lệ sau chiến thắng trở về và ăn mừng, ăn mừng xa hoa.
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Không gian sử thi được thể hiện trong đoạn trích qua chi tiết:
A. Ngôi nhà khang trang của Mtao Gru
B. Cộng đồng dân cư đông đảo của Đăm Săn và Mtao Gru
C. Sự bản lĩnh của Đăm Săn
D. Sự thách thức của Mtao Gru
Câu 2. Hành động đầu tiên của Mtao Gru khi Đăm Săn đến nhà là gì?
A. Sai người nện cổng lại cho thật chặt
B. Khiêu chiến cùng với Đăm Săn
C. Cầu phúc cho Đăm Săn một trâu
D. Lập tức mang khiên và giáo để đâm Đăm Săn
Câu 3. Đáp lại lời cầu phúc cho Đăm Săn một trâu của Mtao Gru, Đăm Săn đã nói gì?
A. Sao diêng lại đâm con lợn thiến? Còn đùi ta diêng dành làm gì? Đây, diêng hãy xem ta. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy oan hồn của Đăm Săn nhằm đùi kẻ thù phóng tới, đâm vừa trúng đích.
B. Khiên đao kêu lạch xạch, khiên đao bị mọt ăn, không biết còn vững nay không còn vững. Ơ diêng người hãy múa trước đi.
C. Diêng múa một mình, diêng múa chơi đó phải không diêng?
D. Lấy cái sàn sân nhà này đem bổ đôi ra cho ta. Lấy cái cầu thang nhà này đem chẻ ra kéo lửa, hun cái nhà này cho ta xem nào.
Câu 4. Lời nói của Mtao Gru “Ơ diêng, ơ diêng! Không được đâm ta khi ta đang đi đó nghe.” Cho thấy đây là nhân vật như thế nào?
A. Cẩn trọng, kĩ tính
B. Cầu toàn, chắc chắn
C. Hèn nhát, sợ sệt
D. Thông minh, có tính toán
Câu 5. Đoạn trích trên đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì?
A. So sánh, phóng đại
B. Nhân hóa, so sánh
C. Ngoa dụ, nhân hóa.
D. Phóng đại, nhân hóa
Câu 6. Anh hùng Đăm Săn được miêu tả trong đoạn trích là người
A. Trọng danh dự và hiếu chiến
B. Trọng danh dự và có sức mạnh phi thường
C. Người múa khiên giỏi và luôn ra vẻ hơn người khác
D. Khinh địch và thể hiện sức mạnh cá nhân
Câu 7. Qua đoạn trích trên, cộng đồng dân cư thể hiện ước mơ gì?
A. Sự mở mang bờ cõi bộ tộc.
B. Công cuộc chiến tranh để chiếm đất đai của bộ tộc
C. Niềm tin vào danh dự, sức mạnh và sự hiếu chiến của cộng đồng trong công cuộc đi chinh phục các bộ tộc khác
D. Niềm tin vào danh dự và sức mạnh cộng đồng trong công cuộc đi chinh phục, mở mang bờ cõi
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
Câu 8. Để khắc họa tư thế và hành động chiến đấu của Đăm Săn, tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Chỉ ra và phân tích
Câu 9. Vì sao Đăm Săn sử dụng cây giáo thần – dính đầy oan hồn của mình để chiến đấu với Mtao Gru?
Câu 10. Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 6 - 10 câu) trình bày ngắn gọn suy nghĩ của em về thái độ và tình cảm của tác giả dân gian với người anh hùng Đăm Săn.
Đáp án:
1: B
2: A
3. D
4. C
5. A
6. B
7. D
8.
- Các biện pháp: Phóng đại, tượng trưng
- Dẫn chứng: Đăm Săn rung khiên múa. Chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Chàng múa chạy nước kiệu, ba lớp núi liền rạn nứt, ba đổi tranh liền bật rễ tung bay.
- Tác dụng: Tư thế chủ động mạnh mẽ, hành động dứt khoát, sức mạnh phi thường.
9.
- Hình tượng cây giáo thần: Biểu tượng cho sức mạnh gắn với thần linh, siêu phàm - Mong muốn thần linh ủng hộ, hỗ trợ con người.
10. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã khắc hoạ nét hình tượng người anh hùng Đăm Săn với vẻ đẹp cả ngoại hình lẫn tính cách. Trước hết, đó là một người có tầm vóc lớn lao, phi thường. Trong trận chiến đầu tiên, khi bị Mtao Mxây trêu tức, chàng đã không ngần ngại mà thách đấu ngay lập tức. Chàng cũng chẳng cần đến sự trợ giúp của bất kì ai mà chỉ mang theo khiên, giáo để đối mặt với kẻ thù. Khi giao chiến Đăm Săn luôn tỏ ra bình tĩnh, tự tin. Dù cho bị Mtao Mxây đâm trúng thì chàng vẫn không hề nao núng mà tiếp tục chiến đấu. Cuối cùng, nhờ sức mạnh phi thường ấy mà chàng đã đánh bại được kẻ thù. Bên cạnh, đó ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật này. Đó là lòng dũng cảm, gan dạ, dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Đồng thời, chàng còn là người rất coi trọng danh dự cá nhân cũng như cộng đồng. Tóm lại, nhân vật Đăm Săn hiện lên trong đoạn trích thật oai phong, lẫm liệt.
Câu 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
CUỘC ĐẤU TRÍ CỦA Ô – ĐI – XÊ VÀ PÊ – NÊ – LỐP
(trích sử thi Ô-đi-xê)
Hô-me-rơ
(Lược dẫn: Ô-đi-xê bảo mọi người đi tắm rửa, rồi mặc quần áo đẹp ca múa, cho người ngoài lầm tưởng trong nhà làm lễ cưới, dặn ai nấy giữ kín chuyện cho đến khi cha con lui về trang trại của La-éc-tơ, rồi sẽ bàn tính sau. Ô-đi-xê cũng đi tắm.)
Khi Ô-đi-xê từ phòng tắm bước ra, trông người đẹp như một vị thần. Người lại về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pê-nê-lốp, trên chiếc ghế bành ban nãy, rồi nói với nàng:
- Nàng thật là người kì lạ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi xa cách chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới được về xứ sở. Thôi, già ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay; vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt.
Pê-nê-lốp khôn ngoan đáp
- Ngài kì lạ thật! Không, tôi không kiêu ngạo, không khinh ngài, cũng không ngạc nhien đến rối trí đâu. Tôi biết rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên một chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ríc-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Ô-đi-xê xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.
Nàng nói vậy để thử chồng, nhưng Ô-đi-xê bỗng giật mình nói với người vợ chung thủy:
- Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần giúp đỡ thì dù là người giỏi nhất cũng khó làm được việc này. Nếu thần linh xê dịch đi thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc của nó có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một cây cảm lãm lá dài: nó mọc lên, khỏe, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây cảm lãm ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt thật khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cánh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó, tôi chặt hết cành là của cây đảm lãm lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường, và lấy khoan khoan lỗ khắp chung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang trí, và cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây cảm lãm mà dời nó đi nơi khác.
Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Ô-đi-xê tả đúng mười mươi sự thực. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng và nói:
- Ô-đi-xê! Xin chàng chớ giận thiếp, vì từ xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghét ghen ta, không muốn cho ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều ác. Không, nàng Ê-len ở Ác-gốt, con gái của Dớt, không bao giờ bước sang giường của người lạ nếu nàng biết trước, một ngày kia những người con anh dũng của dân A-cai lại sẽ dẫn nàng về cửa nhà và xứ sở của nàng. Chắc hẳn mối tình nhục nhã của nàng là do một vị thần xui khiến, chứ không phải chính lòng nàng đã nghĩ ra đầu tiên cái tội lỗi khốc hại ấy, nó là nguyên nhân bao nỗi đau khổ của chúng mình. Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ắc-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho, khi thiếp về đây, và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cố của chúng ta. Vì vậy, chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Nàng nói vậy, khiến Ô-đi-xê càng thêm muốn khóc. Người ôm lấy người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thủy của mình, mà khóc dầm dề. Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện lên trước mắt những người đi biển bị Pô-dê-i-đông đánh tan thuyền trong sóng cả, gió to! Họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào được bờ. Mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất liền mong đợi. Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng nàng sung sướng biết bao! Nàng nhìn chồng không chán mắt, và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời.
Hai vợ chồng kể cho nhau nghe những đau khổ đã phải chịu đựng khi xa nhau. Sáng hôm sau, Ô-đi-xê về thăm cha là La-éc-tơ.
(In trong Ô-đi-xê, Phan Thị Miến dịch, Hoàng Thiếu Sơn giới thiệu,
NXB Văn học, in lần thứ hai, 1983, tr.131-134)
Chú thích:
Tóm tắt văn bản: Sau khi chiến thắng ở Tơ-roa, quân Hi Lạp lan lượt kéo về xứ sở. Ô – đi - xê cùng đoàn dũng sĩ của mình vượt qua một chặng đường dài dằng dặc vô cùng nguy hiểm trên biển cả mênh mông. Đoàn chiến thuyền của Ô – đi - xê gặp bão giạt từ đảo này qua đảo khác, trôi đến bờ biển châu Phi, xứ sở của những người trồng "quả lú " rồi lại trôi đến phía tây Địa Trung Hải. Chàng cùng các chiến hữu lạc vào đảonhững tên khổng lồ “mộtmắt’’ Pô-li-phem, lần sang mảnh đất của bọn khổng lồ “tonhư trái núi ”, vào nhà mụ phù thuỷ Xiếc-xê, xuống "thế giới của những linh hồn ”, lách qua eo biển của hai con quái vật Ca-ríp-đơ và Xki-la trấn giữ, bước lên đảo thần Mặt Trời Hê-li-ốt... Quá đói khát, các bạn đồng hành của Ô – đi - xê ăn mất đàn bò của thần nên đã bị thần Dớt gây ra một trận bão lớn để trừng phạt. Sau bao nhiêu tai họa dồn dập, bạn bè của Ô – đi - xê dần dần chết hết. Ô – đi - xê trôi giạt đến đảo của nàng tiên Ca-lip-xô xinh đẹp. Nàng tiên mê đắm Uy-lít-xơ, dâng thần đơn linh dược cho chàng trở thành bất tử để cùng chàng kết bạn trăm năm. Sau 7 năm trời bị Ca-lip-xô lưu giữ, Ô – đi - xê mới được thần linh giải thoát, chàng tiếp tục vượt biển về quê. Lênh đênh trên biển đến ngày thứ 18 thì bè của Ô – đi - xê bị thần Pô-ê-đi-dông gây bão tố đánh chìm để trả thù cho con trai là gã khổng lồ Pô- li-phem đã bị chàng chọc mù mắt. Ô – đi - xê trôi giạt vào vương quốc Phê-a-xi, được công chúa Nô-di-ca cứu giúp và nhà vua An-Bi-nơ-ôt tiếp đãi ân cần cấp cho thuyền nhẹ bay như cánh chim để chàng về quê hương. Trong bữa tiệc tiễn đưa, nghe nghệ nhân hát ngợi ca về chiến công con ngựa gỗ thành Tơ-roa, Ô – đi - xê xúc động rơi lệ. Nhà vua gạn hỏi mới biết tên thật của chàng. Nhà vua tỏ ý muốn chàng thuật lại hành trình từ khi rời khỏi Tơ-roa. Nghe chàng kể những gian truân, nguy hiểm đã qua, nhà vua và triều thần vô cùng cảm động.
Ô – đi - xê về đến I-ta-cơ quê hương sau 20 năm trời chinh chiến. Chàng giả dạng người hành khất đến gặp người chăn lợn cũ Ơmê, sau đó chàng bí mật gặp lại con trai là Tê-lê-mác. Hai cha con bàn mưu giết bọn cầu hôn. Sau 10 năm trì hoãn, cuối cùng Pê-nê-lốp vợ chàng phải ra điều kiện “ai bắn trúng một phát xuyên qua 12 vòng tròn của 12 cái liu thì nàng sẽ lấy người đó”. Ô – đi - xê vào cung điện của vợ mình trong vai hành khất. Nhũ mẫu ơ-ric-lê theo phong tục đã rửa chân cho chàng, phát hiện ra Ô – đi - xê qua vết sẹo bị lợn lòi húc ở chân. Chàng đã ra hiệu cho ơ-ric-lê giữ bí mật. Cuộc tỉ thí bắt đầu. 108 vị cầu hôn đều thất bại, chỉ có người hành khất đã bắn xuyên 12 chiếc rìu. Hai cha con Ô – đi - xê đã trừng trị bọn cầu hôn và lũ người nhà phản bội. Nhưng Pê-nê-lốp vẫn không chịu nhận chàng. Chỉ đến lúc Ô – đi - xê chỉ ra các dấu riêng của chiếc chân giường là một cái gốc cây, Pê-nê-lốp mới nhận ra chồng nàng. Cuộc dàn xếp với thân nhân của bọn cầu hôn bị giết diễn ra những ngày sau đó.
Đoạn trích: Trong phần cuối của thiên sử thi: Cuộc hội ngộ của Ô – đi – xê và người vợ Pê – nê – lốp qua cuộc đấu trí đầy thử thách, hai người đã được đoàn tụ
Lựa chọn đáp án đúng:
1. Nhân vật chính trong đoạn trích trên là:
A. Ô – đi - xê
B. Ô – đi – xê và Pê – nê – lốp
C. Pê - nê – lốp
D. Ơ – ríc - lê và Pê – nê – lốp
2. Pê – nê – lốp đã nói điều gì để kiểm chứng người chồng của mình?
A. Nàng cố ý nhờ nhũ mẫu Ơ – ríc – lê mang chiếc giường (vốn chỉ có mình Ô – đi – xê dịch chuyển được) ra bên ngoài
B. Nàng nhờ nhũ mẫu Ơ - ríc – lê mời Ô – đi – xê vào phòng và dịch chuyển chiếc giường
C. Nàng cố ý nói về bí mật chiếc giường cho Ô – đi – xê biết
D. Nàng cố ý nói về việc chiếc giường đã được người khác chuyển đi nơi khác
3. Cuộc đấu trí của Ô – đi – xê và Pê – nê – lốp được thể hiện chủ yếu qua:
A. Các hành động của hai nhân vật qua lời người kể
B. Các hành động của hai nhân vật qua lời của nhũ mẫu
C. Lời đối thoại của hai nhân vật
D. Lời người kể chuyện toàn tri chứng kiến sự việc
4. Cảm xúc của Pê – nê – lốp khi nhận ra “mười mươi là sự thực” là gì?
A. Nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng và hôn lên trán chồng.
B. Vẫn bán tính bán nghi và yêu cầu Ô – đi – xê dịch chuyển chiếc giường
C. Không tin vào mắt mình, chạy lại lay Ô – đi – xê đã xác định sự thực
D. Bủn rủn chân tay, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng và hôn lên trán chồng.
5. Vì sao Pê – nê – lốp lại nghĩ ra thử thách về câu chuyện chiếc giường để thử Ô – đi – xê?
A. Vì đây là bí mật chỉ có nàng, Ô – đi – xê và một người tì thiếp biết được
B. Vì đây là chiếc giường do chính Ô – đi – xê đóng
C. Vì đây là bí mật giữa hai vợ chồng
D. Vì chỉ có Ô – đi – xê mới hiểu được kết cấu của chiếc giường
6. Hình tượng nhân vật Pê – nê – lốp hiện lên trong đoạn trích là người như thế nào?
A. Thủy chung, hết lòng yêu thương chồng
B. Đa nghi và cực đoan
C. Dễ thay lòng đổi dạ
D. Trái tim sắt đá và vô cảm
7: Hình tượng anh hùng sử thi Ô – đi – xê hiện lên trong đoạn trích là người như thế nào?
A. Đa nghi
B. Thông minh, nhanh trí và hết lòng yêu thương vợ
C. Hay dỗi hờn và gây khó dễ cho người khác
D. Ngờ nghệch và cả tin
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
8. Chi ra những đặc trưng của thể loại sử thi trong tác phẩm “Ô – đi – xê” và đoạn trích trên.
9. Văn bản trên tập trung thể hiện nét đặc điểm, tính cách nào của nhân vật Ô-đi-xê? Nét tính cách đó có tiêu biểu cho đặc điểm của nhân vật sử thi hay không? Hãy lí giải.
10. Từ nội dung đoạn trích của văn bản, hãy trình bày ý kiến của em về sự thủy chung bằng đoạn văn ngắn khoảng 10-12 câu.
Đáp án:
1. B
2. A
3. C
4. D
5. A
6. A
7. B
8. Những đặc trưng của thể loại sử thi trong tác phẩm “Ô – đi – xê” và đoạn trích trên:
- Thời gian: Không xác định - Không gian: Cộng đồng rộng lớn - Nhân vật chính: Người anh hùng Ô – đi – xê với những phẩm chất dũng cảm, kiên cường, thủy chung, … đại diện cho cộng đồng - Sự kiện: Nhân vật chính trải qua những thử thách để thể hiện rõ những phẩm chất của mình
9.
- Văn bản trên tập trung thể hiện nét đặc điểm, tính cách của nhân vật Ô-đi-xê: Thông minh, thủy chung, khéo léo và có sức khỏe phi thường.
- Nét tính cách đó là tiêu biểu cho đặc điểm của nhân vật sử thi vì mang những phẩm chất tốt đẹp là ước mơ và khát vọng của cộng đồng.
10. Lòng chung thủy là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta từ bao thế hệ nay. Chung thủy nghĩa là sự son sắc một lòng trong mọi hoàn cảnh,dù gặp nhiều khó khăn, thử thách hay đựoc sống hạnh phúc ta vẫn không thay lòng đổi dạ. Lòng chung thủy được biểu hiện qua rất nhiều mối quan hệ như vợ chòng, bạn bè,.... Khi có lòng chung thủy mối quan hệ của mọi người sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nó chính là chất keo gắn dính con người lại với nhau. Như trong mối quan hệ vợ chồng lòng chung thủy sẽ giúp gia đình bạn hạnh phúc. Trong tình bạn nếu có lòng thủy chung thì chắc hẳn tình bạn sẽ được kéo dài và bền vững hơn bao giờ hết. Con người muốn có muốn quan hệ lâu bền thì phải dùng trái tim để đối đáp với nhau. Long chung thủy chính là một thước đo của phẩm chất. Một con người có lòng chung thủy sẽ được mọi người xung quanh yêu mến và kính trọng. Vậy mà trong cuộc sống hiện nay vẫn còn rất nhiều những con người thiếu đi sự trung thủy, ngoại tình, lừa gạt mọi người xung quanh. Đó là những con người đáng lên án và loại bỏ. Tóm lại lòng thủy chung là quý giá nên chúng ta hãy rèn luyện đức tính này để cuộc sống trở nên tố đẹp hơn.
Câu 3: Đọc văn bản sau:
PHÁT RẪY DỌN RUỘNG, ĐI RỪNG SĂN THÚ
(Trích “Đăm Săn”)
Đăm Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở thêm một chiều một sáng. Chàng gọi
ĐĂM SĂN: Hỡi bà con dân làng, hỡi các em, các cháu! Hội hè đã vãn, bây giờ chúng ta phải lo việc làm ăn, sửa sang ruộng rẫy, kẻo hụt muối, thiếu thuốc, đến quả kênh (1), củ ráy cũng không có mà ăn. (nói với tôi tớ) Bớ các con, chúng ta hãy đi phát rẫy, dọn ruộng, hãy đi rừng săn thú nào.
Thế là họ ra đi tìm rừng làm một cái rẫy bảy vạt núi. Họ đã phát xong cỏ, đốn xong cây. Ít lâu sau đó họ đốt, rồi ai làm cỏ cứ làm, ai cào cứ cào.
TÔI TỚ: Ái chà! thế mà chúng ta đã làm cỏ xong, cũng đã cào dọn xong rồi đó. Mưa rào rồi, bớ anh em, ta đi trỉa nào.
ĐĂM SĂN: Khoan, khoan, ơ các con. Hãy chờ ta lên ông Trời xin giống về đã.
Nói rồi Đăm Săn ra đi
ĐĂM SĂN: Ông ơi! ới ông ơi! Thả thang xuống cho cháu.
Ông Trời thả xuống một cái thang vàng, Đăm Săn leo lên.
ÔNG TRỜI: Cháu lên có việc gì đó? Gấp lắm hả?
ĐĂM SĂN: Không có chuyện gì gấp đâu ông ơi. Cháu chỉ lên xin ông lúa giống thôi.
Ông Trời lấy lúa giống cho Đăm Săn. Ông cho đủ thứ, mỗi thứ một hạt, mỗi thứ một hạt.
ĐĂM SĂN: Ông ơi, từng này sao đủ trỉa?
ÔNG TRỜI: Sao lại không đủ? Cháu cứ trỉa mỗi góc một thứ, mỗi góc một hạt là đủ đấy cháu ạ.
Đăm Săn tụt xuống đất đi về. Về đến nơi chàng ra lệnh
ĐĂM SĂN: Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói. Ơ tất cả tôi tớ của ta, các người hãy một trăm người vạch luống, một nghìn người chọc lỗ trỉa đi.
Thế là đoàn người nườm nượp ríu rít gieo trỉa. Người kín đen như một đêm không trăng, như một mớ tơ đen vừa nhuộm, ùn ùn như kiến, như mối.
TÔI TỚ: Chu cha! Thế mà trỉa xong rồi đó ông ạ.
ĐĂM SĂN: Bây giờ chúng ta làm chòi giữ rẫy đi.
Chòi rẫy làm xong, Đăm Săn ngủ lại để canh thú rừng đến phá rẫy, đuổi lũ két, lũ vẹt, trông chừng bày hươu nai, lợn rừng, gà rừng, chim sẻ, chim ngói. Còn H’Nhĭ, H’Bhĭ người thì ngồi may áo ở chòi phía đông, người thì ngồi dưới gầm nhà dệt vải.
***
Đăm Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng
ĐĂM SĂN: Ơ Y Blim làng Blô, ơ Y blô làng Blang, ơ làng Kang, làng Ana, nơi chôn nhau của những cô gái đẹp. Ơ làng Hoh, làng Hun, nơi cắt rốn của những chàng trai xinh. Các người đi bắt voi về cho ta.
Y BLIM, Y BLO: Thưa ông, ông cần voi làm gì ạ?
ĐĂM SĂN: Ta muốn cùng các ngươi chiều đi câu, sáng đi bắt cá. Ăn mãi trâu bò ngán rồi. Bây giờ ta muốn ăn con tôm con cua.
Y Blim, Y Blô đi bắt voi.
Y BLIM, Y BLO: Ơ Dul, ơ Dul, mày ăn cây le. Ơ Đê, ơ Đê (2) , mày ăn cây lồ ô. Chủ chúng mày, ông Đăm Săn nay muốn chúng mày đưa ông đi bắt cá (hỏi Đăm Săn) ơ ông, ơ ông, ông cho đóng bành nào?
ĐĂM SĂN: Voi đực đóng bành mây, voi cái đóng bành guột.
Voi đóng bành rồi Đăm Săn leo lên ra đi. Người đi theo đông như bày cà tong (3), đặc như bày thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Đoàn người đến một con suối.
ĐĂM SĂN: Ơ các con, ơ các con, tháo bành voi, chúng ta xuống nước nào.
Đoàn người xuống nước. Tức thì cua chết đầy bờ, tôm chết đặc suối, cá sấu trong hang, rắn hổ rắn mai đều kéo nhau nằm dài trên mặt đất
(Nguyễn Hữu Thấu sưu tầm, biên dịch, chỉnh lí, Sử thi Ê-đê, Khan Đăm Săn và Khan Đăm Kteh Milan, tập II, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003)
Chú thích:
Đăm Săn (hay còn gọi là Bài ca chàng Đăm Săn) là pho sử thi nổi tiếng của người Ê-đề. Sử thi Đăm Săn thường được diễn xướng theo lối kể khan, trong đó già làng vừa kể, hát, vừa sử dụng nét mặt, điệu bộ để diễn tả câu chuyện bên bếp lửa nhiều đêm liền, trong các nhà dài, trên chòi rẫy, vào dịp lễ hội hay lúc nông nhàn. Nghe kể khan Đăm Săn là một truyền thống văn hoá của người Ê-đê. Sau khi đã chiến thắng Mtao Grự, Đăm Săn trở nên một tù trưởng giàu mạnh, danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi. Sau những ngày ăn mừng chiến thắng, Đăm Săn đã kêu gọi cả dân làng trồng giống lúa mới và bắt đầu tìm kiếm muông thú, hải sản để phát triển cuộc sống.
(1) Quả kênh: hình thù như quả núc nác, hạt vỏ đen, trong đó nhân có thể ăn cứu đói được
(2) Dul, Đê: tên gọi những con voi của Hơ Nhị, Đăm Săn
(3) Cà tong: loài hươu, mang cao giò, chạy rất nhanh
1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
A. Thần thoại
B. Sử thi
C. Truyền thuyết
D. Cổ tích
2. Xác định ngôi kể trong văn bản
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Kết hợp ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba
3. Sau thời gian “Đăm Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở thêm một chiều một sáng” Đăm Săn kêu gọi dân làng làm việc gì?
A. Đi phát rẫy, dọn ruộng, đi rừng săn thú
B. Đi làm nương, đi gặp ông trời xin giống lúa tốt
C. Đi phát rẫy, dọn ruộng và lên gặp ông trời xin giống lúa tốt
D. Đi phát rẫy, dọn nương và trồng một loại quả mới
4: Vì sao Đăm Săn lại kêu gọi buôn làng lao động sau những ngày ăn mừng kéo dài?
A. Chàng sợ rằng người dân của mình sẽ lười biếng
B. Chàng sợ rằng sẽ “hụt muối, thiếu thuốc, đến quả kênh, củ ráy cũng không có mà ăn”
C. Chàng sợ rằng kẻ thù sẽ tranh thủ cơ hội mà đánh chiếm buôn làng của mình.
D. Chàng mong muốn người dân lao động để mình có cái ăn chơi
5. Lí do mà Đăm Săn lên gặp ông Trời là gì?
A. Chàng xin mùa màng bội thu
B. Chàng xin giống lúa tốt để về trỉa
C. Chàng xin cuộc sống sung túc cho dân làng
D. Chàng xin một giống cây mới lạ để gieo trồng
6. Vì sao Đăm Săn muốn cùng người dân chiều đi câu, sáng đi bắt cá? Ta muốn cùng các ngươi chiều đi câu, sáng đi bắt cá. Ăn mãi trâu bò ngán rồi. Bây giờ ta muốn ăn con tôm con cua.
A. Đăm Săn muốn được hòa cùng cuộc sống lao động của người dân
B. Đăm Săn muốn ăn người dân lao động nhiều hơn nữa
C. Đăm Săn cảm thấy ăn thịt trâu bò ngán rồi, cần mở rộng nguồn lương thực (tôm, cua) cho người dân
D. Đăm Săn muốn mở rộng sản xuất
7. Đoạn trích trên khai thác vấn đề lớn nào của cộng đồng dân cư trong sử thi?
A. Hôn nhân và cuộc sống
B. Chiến tranh và mở rộng bờ cõi
C. Chinh phục và khám phá thiên nhiên
D. Lao động
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
8: Chỉ ra và phân tích các lời thoại thể hiện phẩm chất của người anh hùng dẫn dắt bộ tộc của Đăm Săn trong đoạn trích.
9: Phân tích yếu tố nghệ thuật của sử thi (biện pháp tu từ, lời kể, giọng điệu, vần nhịp,…) được thể hiện trong đoạn trích.
10. Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 - 7 dòng) nêu cảm nhận của em về khát vọng của cộng đồng dân cư được thể hiện trong trích đoạn trên
Đáp án:
1: B
2: C
3: A
4: B
5: B
6: C
7: D
8.
Phẩm chất |
Lời người kể |
Lời nhân vật |
Đăm Săn là một tù trường đề cao lao động |
|
Hỡi bà con dân làng, hỡi các em, các cháu! Hội hè đã vãn, bây giờ chúng ta phải lo việc làm ăn, sửa sang ruộng rẫy, kẻo hụt muối, thiếu thuốc, đến quả kênh (1), củ ráy cũng không có mà ăn. (nói với tôi tớ) Bớ các con, chúng ta hãy đi phát rẫy, dọn ruộng, hãy đi rừng săn thú nào. |
Đăm Săn là một tù trưởng vì lợi ích của cộng đồng |
Nói rồi, Đăm Săn ra đi |
Khoan, khoan, ơ các con. Hãy chờ ta lên ông Trời xin giống về đã. |
Đăm Săn là một tù trưởng mong muốn khai phá, sáng tạo những điều mới mẻ cho cộng đồng |
Đoàn người xuống nước. Tức thì cua chết đầy bờ, tôm chết đặc suối, cá sấu trong hang, rắn hổ rắn mai đều kéo nhau nằm dài trên mặt đất |
Ta muốn cùng các ngươi chiều đi câu, sáng đi bắt cá. Ăn mãi trâu bò ngán rồi. Bây giờ ta muốn ăn con tôm con cua. |
9. Một số yếu tố nghệ thuật của sử thi (biện pháp tu từ, lời kể, giọng điệu, vần nhịp,…) được thể hiện trong đoạn trích:
- Giọng kể: Hào hùng, mang tính chất cộng đồng rộng lớn “Ơ các con, ơ các con, hỡi bà con dân làng”
- Biện pháp tu từ: So sánh, nói quá, liệt kê “Người đi theo đông như bày cà tong (3), đặc như bày thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Đoàn người đến một con suối.”; “Đoàn người xuống nước. Tức thì cua chết đầy bờ, tôm chết đặc suối, cá sấu trong hang, rắn hổ rắn mai đều kéo nhau nằm dài trên mặt đất” “Đăm Săn ngủ lại để canh thú rừng đến phá rẫy, đuổi lũ két, lũ vẹt, trông chừng bày hươu nai, lợn rừng, gà rừng, chim sẻ, chim ngói.”
- Nhịp điệu trong các câu văn “Voi đực đóng bành mây, voi cái đóng bành guột.” “Còn H’Nhĭ, H’Bhĭ người thì ngồi may áo ở chòi phía đông, người thì ngồi dưới gầm nhà dệt vải.”
- Chi tiết tưởng tượng kì ảo: Đăm Săn bắc thang lên gặp ông Trời xin giống.
10. Khát vọng của cộng đồng dân cư về lao động được thể hiện trong trích đoạn “Phát rẫy dọn ruộng, đi rừng săn thú” là một khát vọng lớn lao và cao cả. Lao động không chỉ để duy trì cuộc sống mà còn giúp phát triển cuộc sống. Đăm Săn mong muốn có được giống lúa tốt để phát triển trồng trọt, có của ăn của để cho dân làng mình. Không chỉ trồng lúa, Đăm Săn còn có khát vọng mở rộng địa phận, loại hình lao động, không chỉ săn bắn, hái lượm, vật nuôi như lợn, bò, gà,…mà mong muốn đánh bắt thủy hải sản, mở rộng sản xuất để cuộc sống đa dạng và phát triển hơn.
Câu 4: Đọc văn bản sau:
RAMA VÀ RAVANA XUẤT TRẬN
(Trích Sử thi Ra – ma – ya – na - Ấn Độ)
Khi Rama thấy những mũi tên của mình rơi xuống không có hiệu lực gì, trong khi đó thì chiếc đinh ba vẫn cứ bay về phía chàng, trong chốc lát chàng đã mất bình tĩnh. Khi nó bay tới quá gần, chàng liền đọc mấy câu thần chú rút từ trong đáy sâu của người chàng, và trong khi chàng đưa ra câu thần chú, bí mật và chọn đúng lúc, thì chiếc đinh ba rơi xuống. Ravana, tin chắc với chiếc đinh ba này, thế nào cũng sẽ thắng Rama, rất kinh ngạc thấy nó rơi xuống gần bên lão, và trong giây phút lão muốn tìm hiểu xem kẻ thù có phải là một bậc thánh thần chăng mặc dầu trông có vẻ như một người trần tục. Ravana nghĩ thầm: “Có lẽ đây là vị thần tối cao. Hẳn có thể là ai nhỉ? Không phải Xiva, vì Xiva ủng hộ ta; hắn cũng không thể là Brahma vì phải có bốn mặt; cũng không thể là Vixnu vì đối với vũ khí của cả ba vị ta đều được miễn trừ cả. Có thể con người này là sinh vật hàng đầu, và là nguyên nhân chính dấu đằng sau toàn bộ vũ trụ. Nhưng dù hắn là ai đi nữa, ta cũng không dừng chiến đấu cho đến khi đánh bại và đập nát nó hoặc cuối cùng bắt cầm tù nó”.
Với quyết tâm đó, Ravana tung ra một loại vũ khí có thể sinh những con rắn quái gở phun ra lửa và nọc độc, với những cái nanh đồ sộ và những con mắt đỏ ngầu; chúng xông tới phóng nọc độc ra khắp các hướng.
Giờ Rama lại chọn một vũ khí tên là “Garuda” (có nghĩa là “đại bàng”); lập tức có hàng nghìn con đại bàng ở trên cao dùng móng vuốt và mỏ đánh vào những con rắn và tiêu diệt chúng. Thấy vũ khí này cũng thất bại, cơn giận của Ravana bùng lên tới mức điên cuồng cao độ, và lão mù quáng bắn lung tung ra khắp nẻo cho đến hết của túi tên. Những mũi tên của Rama chặn chúng lại giữa đường và xua chúng trở lại như thế nào mà mũi nhọn của chúng lại đâm vào ngực Ravana.
Tinh thần Ravana đã suy sụp. Lão nhận thấy đã cùng đường rồi. Tất cả những gì lão học được về vũ khí, và tất cả trang bị của lão đều không có chút giá trị nào và rõ ràng là đã đến chỗ cuối cùng của những biệt tài phá hoại của lão. Trong khi lão đang sụp đổ như vậy, thì tinh thần Rama lại vươn lên. Các chiến binh đã xáp lại gần nhau đến nỗi có thể đánh giáp lá cà với nhau được, và Rama nghĩ rằng đây là lúc tốt nhất để chặt đầu Ravana. Chàng bắn ra một mũi tên hình lưỡi liềm cắt luôn một trong mấy cái đầu của Ravana, và ném ra ngoài biển xa, và cứ thế tiếp tục luôn, nhưng cứ mỗi khi có một đầu rơi xuống, thì Ravana lại có phép thần làm cho một cái đầu khác lại mọc lên, thay vào đó. Vũ khí hình lưỡi liềm của Rama vẫn bận rộn luôn vì đầu của Ravana cứ mọc lại luôn. Rama liền cắt đứt những cánh tay của lão, nhưng tay cũng mọc lại; mỗi cánh tay rời ra lại đánh vào Matali cùng chiếc xe và cố phá hủy tất cả, và cái lưỡi trong cái đầu mới lại gào réo, chửi rủa và thách thức Rama. Trên mỗi cái đầu đã bị cắt của Ravana, bọn quỷ lớn, quỷ nhỏ xưa nay vẫn sợ Ravana, và phải vâng lệnh, phải làm vừa lòng lão, cùng nhau nhảy điệu nhảy của thần chết và vui chơi, hoan hỉ trên từng mảnh thịt. Giờ thì Ravana đã thất vọng. Những mũi tên của Rama đâm thủng hàng trăm chỗ trên cơ thể lão và làm cho lão yếu hẳn đi. Lúc này lão ngã ra bất tỉnh trên sàn xe. Thấy thế, tên đánh xe tháo lui và cho xe sang một bên. Matali rỉ tai Rama: “Đây là lúc kết liễu con quỷ này. Nó đã ngã xuống rồi. Làm đi, làm đi!”.
Nhưng Rama để cung sang một bên và nói: “Trong chiến tranh giết một người đã ngã lăn ra, là không đẹp. Ta sẽ đợi cho hắn tỉnh lại”. Và chàng đợi.
(Ramayana của tác giả Valmiki, NXB Đà Nẵng)
Chú thích:
Tóm tắt tác phẩm: Câu chuyện diễn ra ở vương quốc Kô-sa-la. Vua Đa-xa-ra-tha có bốn người con trai do ba bà vợ sinh ra. Ra-ma là con cả, hơn hẳn các em về tài đức. Vua cha có ý định nhường ngôi cho chàng nhưng vì lời hứa với bà vợ thứ Ka-kêy-i xinh đẹp nên đã đày Ra-ma vào rừng và trao ngôi lại cho Bha-ra-ta, con của Ka-kêy-i. Ra-ma cùng vợ là Xi-ta và em trai Lắc-ma-na vào rừng sống ẩn đật. Quỷ vương Ra-va-na lập mưu cướp Xi-ta đem về làm vợ. Mặc quỷ vướng dụ dỗ và ép buộc, Xi-ta vẫn kịch liệt chống cự. Chiến đấu với quỷ vương Ravana gặp rất nhiều khó khăn, Ravana vốn là con quỷ có mười đầu, đầu chặt xong lại mọc lên, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Hanuman và nhờ có thanh kiếm thần của thần Brahma cấp cho nên Rama dã tiêu diệt được Ravana cứu được nàng Xi - ta. Nhưng sau đó, Ra-ma nghi ngờ tiết hạnh của Xi-ta và không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để chứng tỏ lòng chung thuỷ của mình, Xi-ta đã nhảy vào lửa. Thần Lửa biết Xi-ta trong sạch nên đã cứu nàng. Ra-ma và Xi-ta trở về kinh đô.
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần chiến đấu của Rama và quỷ vương Ravana để cứu nàng Xi – ta
1. Sự kiện chính trong văn bản trên là:
A. Sự thất bại của quỷ vương Ravana
B. Cuộc chiến đấu giữa người anh hùng Rama và quỷ vương Ravana
C. Sự hung dữ và sức mạnh của quỷ vương Ravana
D. Sức mạnh vô địch của Rama
2. Xác định ngôi kể trong văn bản
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Kết hợp ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba
3. Vì sao quỷ vương Ravana lại “muốn tìm hiểu xem kẻ thù có phải là một bậc thánh thần chăng mặc dầu trông có vẻ như một người trần tục” sau khi bắn mũi tên?
A. Vì Ravana cảm thấy khó hiểu trước những câu thần chú mà Rama đọc
B. Vì Ravana tin vào sức mạnh tối cao của mình có thể tiêu diệt Rama
C. Vì Ravana tin chắc với chiếc đinh ba này sẽ đánh bại Rama nhưng cuối cùng nó lại rơi xuống gần về phía bên lão
D. Vì Ravana không thể ngờ được bản thân mình lại đối đầu với một thế lực thần linh
4: Khi “Ravana tung ra một loại vũ khí có thể sinh những con rắn quái gở phun ra lửa và nọc độc, với những cái nanh đồ sộ và những con mắt đỏ ngầu; chúng xông tới phóng nọc độc ra khắp các hướng”, Rama đã sử dụng loại vũ khí nào để đáp trả?
A. Vũ khí tên là “Garuda” (có nghĩa là “đại bàng”)
B. Câu thần chú của những vị thần tối cao
C. Vũ khí lưỡi liềm
D. Những mũi tên có khả năng đâm xuyên qua ngực đối phương
5. Vì sao Rama có thể chống cự lại những mũi đinh ba của quỷ vương Ravana chỉ bằng câu thần chú từ đáy sâu trong lòng chàng?
A. Thể hiện sức mạnh nội tại của Rama
B. Thể hiện niềm tin vào sức mạnh thần linh bí ẩn giúp đỡ người anh hùng
C. Thể hiện được sự cứu giúp của đức Phật
D. Thể hiện được triết lí “ở hiền gặp lành”
6. Hành động Rama để cung sang một bên và nói: “Trong chiến tranh giết một người đã ngã lăn ra, là không đẹp. Ta sẽ đợi cho hắn tỉnh lại”. Và chàng đợi, phản ánh điều gì của cộng đồng về người anh hùng sử thi?
A. Giàu lòng nhân ái
B. Chiến đấu công bằng và hào hiệp
C. Trọng danh dự
D. Trọng chữ tín
7. Hình tượng người anh hùng Rama trong đoạn trích trên nổi bật với nét phẩm chất/tính cách nào?
A. Sức mạnh phi thường và danh dự của người anh hùng trong chiến đấu
B. Sức mạnh phi thường và quyết tâm tiêu diệt đối phương dù họ có mạnh như thế nào
C. Sức mạnh phi thường và được sự trợ giúp của thần linh
D. Sức mạnh phi thường và khả năng đọc được suy nghĩ của đối thủ
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
8: Phân tích suy nghĩ, hành động, sức mạnh của Rama và quỷ vương Ravana, theo em việc xây dựng hai hình tượng trong cuộc chiến này thể hiện ý nghĩa gì?
9: Theo em, tại sao Rama lại không “kết liễu”, đuổi cùng giết tận quỷ vương Ravana mà bình tĩnh “đợi” cho hắn tỉnh lại?
10. Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 - 7 dòng) nêu cảm nhận của em về những phẩm chất tiêu biểu của người anh hùng Sử thi được thể hiện qua nhân vật Rama trong đoạn trích
Đáp án:
1. B
2. C
3. C
4. A
5. B
6. C
7. A
8.
|
Rama Ravana |
Rama Ravana |
Suy nghĩ |
- Ban đầu: Mất bình tĩnh - Sau đó: Tự tin chiến đấu |
- Ban đầu: Thắc mắc về sức mạnh của Rama - Sau đó: Quyết tâm tiêu diệt Rama bằng mọi cách; giận bừng bừng khi không thể tiêu diệt được Rama |
Hành động |
- Đọc câu thần chú để tránh chiếc đinh ba. - Rama lại chọn một vũ khí tên là “Garuda” (có nghĩa là “đại bàng”); lập tức có hàng nghìn con đại bàng ở trên cao dùng móng vuốt và mỏ đánh vào những con rắn và tiêu diệt chúng. - Tung ra vũ khí là một lưỡi liềm để tiêu diệt Ravana |
- Bắn ra chiếc đinh ba để tiêu diệt Rama. - Tung ra một loại vũ khí có thể sinh những con rắn quái gở phun ra lửa và nọc độc |
Sức mạnh |
- Mạnh mẽ hơn, được sự phù hộ của thần linh |
- Mạnh mẽ, thâm độc |
9. Rama lại không “kết liễu”, đuổi cùng giết tận quỷ vương Ravana mà bình tĩnh “đợi” cho hắn tỉnh lại vì điều đó thể hiện được sự trọng danh dự, không đánh lén, đâm lén kẻ thù mà muốn đàng hoàng chiến đấu và phẩm chất của người anh hùng cổ đại.
10. Qua đoạn trích, ta có thể thấy được những phẩm chất tiêu biểu của người anh hùng Sử thi được thể hiện qua nhân vật Rama. Chàng là người có trí thông minh phi phàm, có sức mạnh phi thường mà không ai có thể sánh nổi. Chàng đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho dân làng cũng chính là đang chuyên chở những mong muốn, ao ước của người dân Ấn về một cuộc sống công bằng xã hội được đặt lên hàng đầu.
Câu 5: Đọc đoạn trích sau:
Khi Rama thấy những mũi tên của mình rơi xuống không có hiệu lực gì, trong khi đó thì chiếc đinh ba vẫn cứ bay về phía chàng, trong chốc lát chàng đã mất bình tĩnh. Khi nó bay tới quá gần, chàng liền đọc mấy câu thần chú rút từ trong đáy sâu của người chàng, và trong khi chàng đưa ra câu thần chú, bí mật và chọn đúng lúc, thì chiếc đinh ba rơi xuống. Ravana, tin chắc với chiếc đinh ba này, thế nào cũng sẽ thắng Rama, rất kinh ngạc thấy nó rơi xuống gần bên lão, và trong giây phút lão muốn tìm hiểu xem kẻ thù có phải là một bậc thánh thần chăng mặc dầu trông có vẻ như một người trần tục. Ravana nghĩ thầm: “Có lẽ đây là vị thần tối cao. Hắn có thể là ai nhỉ? Không phải Xiva, vì Xiva ủng hộ ta; hắn cũng không thể là Brahma vì phải có bốn mặt; cũng không thể là Vixnu vì đối với vũ khí của cả ba vị ta đều được miễn trừ cả. Có thể con người này là sinh vật hàng đầu, và là nguyên nhân chính dấu đằng sau toàn bộ vũ trụ. Nhưng dù hắn là ai đi nữa, ta cũng không dừng chiến đấu cho đến khi đánh bại …cuối cùng bắt cầm tù nó”.
Với quyết tâm đó, Ravana tung ra một loại vũ khí có thể sinh những con rắn quái gở phun ra lửa và nọc độc, với những cái nanh đồ sộ và những con mắt đỏ ngầu; chúng xông tới phóng nọc độc ra khắp các hướng.
Giờ Rama lại chọn một vũ khí tên là “Garuda” (có nghĩa là “đại bàng”); lập tức có hàng nghìn con đại bàng ở trên cao dùng móng vuốt và mỏ đánh vào những con rắn và tiêu diệt chúng. Thấy vũ khí này cũng thất bại, cơn giận của Ravana bùng lên tới mức điên cuồng cao độ, và lão mù quáng bắn lung tung ra khắp nẻo cho đến hết của túi tên. Những mũi tên của Rama chặn chúng lại giữa đường và xua chúng trở lại như thế nào mà mũi nhọn của chúng lại đâm vào ngực Ravana.
Tinh thần Ravana đã suy sụp. Lão nhận thấy đã cùng đường rồi... Trong khi lão đang sụp đổ như vậy, thì tinh thần Rama lại vươn lên. Các chiến binh đã xáp lại gần nhau đến nỗi có thể đánh giáp lá cà với nhau được, và Rama nghĩ rằng đây là lúc tốt nhất để chặt đầu Ravana. Chàng bắn ra một mũi tên hình lưỡi liềm cắt luôn một trong mấy cái đầu của Ravana, và ném ra ngoài biển xa, và cứ thế tiếp tục luôn, nhưng cứ mỗi khi có một đầu rơi xuống, thì Ravana lại có phép thần làm cho một cái đầu khác lại mọc lên, thay vào đó. Vũ khí hình lưỡi liềm của Rama vẫn bận rộn luôn vì đầu của Ravana cứ mọc lại luôn. … Những mũi tên của Rama đâm thủng hàng trăm chỗ trên cơ thể lão và làm cho lão yếu hẳn đi. Lúc này lão ngã ra bất tỉnh trên sàn xe. Thấy thế, tên đánh xe tháo lui và cho xe sang một bên. Matali rỉ tai Rama: “Đây là lúc kết liễu con quỷ này. Nó đã ngã xuống rồi. Làm đi, làm đi!”.
Nhưng Rama để cung sang một bên và nói: “Trong chiến tranh giết một người đã ngã lăn ra, là không đẹp. Ta sẽ đợi cho hắn tỉnh lại”. Và chàng đợi.
(Ramayana, Valmiki, người dịch Đào Xuân Quý, NXB Đà Nẵng)
Chú thích: Câu chuyện diễn ra ở vương quốc Kôsala. Vua Đaxaratha có bốn người con trai do ba bà vợ sinh ra. Rama là con cả, hơn hẳn các em về tài đức. Vua cha có ý định nhường ngôi cho chàng nhưng vì lời hứa với bà vợ thứ Kakêyi xinh đẹp nên đã đày Rama vào rừng và trao ngôi lại cho Bharata, con của Kakêyi. Rama cùng vợ là Xita và em trai Lắcmana vào rừng sống ẩn dật. Quỷ vương Ravana lập mưu cướp Xita đem về làm vợ. Chiến đấu với quỷ vương Ravana gặp rất nhiều khó khăn, Ravana vốn là con quỷ có mười đầu, đầu chặt xong lại mọc lên, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Hanuman và nhờ có thanh kiếm thần của thần Brahma cấp cho nên Rama đã tiêu diệt được Ravana cứu được nàng Xita.
Lựa chọn phương án đúng nhất:
1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
A. Thần thoại
B. Sử thi
C. Truyền thuyết
D. Cổ tích
2. Xác định ngôi kể trong văn bản.
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Kết hợp ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba
D. Ngôi thứ ba
3. Nêu sự kiện chính trong văn bản.
A. Sự thất bại và hối hận của quỷ vương Ravana.
B. Sự hung dữ và sức mạnh quỷ vương Ravana.
C. Sức mạnh và lòng kiêu hãnh của người anh hùng Rama.
D. Cuộc chiến đấu giữa Rama và quỷ vương Ravana.
4. Xác định từ để thay thế phần in nghiêng trong câu văn sau: Đoạn trích đã thể hiện sức mạnh quá ư phi thường của người anh hùng Rama.
A. lạ thường
B. bất thường
C. phi thường
D. dị thường
5. Nêu thái độ của người kể chuyện đối với nhân vật Rama.
A. Thái độ ca ngợi, tự hào.
B. Thái độ yêu thương, quan tâm.
C. Thái độ miệt thị, coi thường.
D. Thái độ xót xa, thương cảm.
6. Trong văn bản, nhân vật Rama được khắc họa với vẻ đẹp gì?
A. Phẩm chất và ngoại hình của người anh hùng trong chiến đấu.
B. Sức mạnh và danh dự người anh hùng trong chiến đấu.
C. Tài năng của người anh hùng trong chiến đấu.
D. Trí tuệ của người anh hùng trong chiến đấu.
7. Phân tích tác dụng của biện pháp nói quá trong câu văn in đậm.
8. Đoạn văn sau sử dụng cách trích dẫn nào? Vì sao?
“Có lẽ đây là vị thần tối cao. Hắn có thể là ai nhỉ? Không phải Xiva, vì Xiva ủng hộ ta; hắn cũng không thể là Brahma vì phải có bốn mặt; cũng không thể là Vixnu vì đối với vũ khí của cả ba vị ta đều được miễn trừ cả. Có thể con người này là sinh vật hàng đầu, và là nguyên nhân chính dấu đằng sau toàn bộ vũ trụ. Nhưng dù hắn là ai đi nữa, ta cũng không dừng chiến đấu cho đến khi đánh bại và đập nát nó hoặc cuối cùng bắt cầm tù nó”.
9. Nêu một bài học có ý nghĩa nhất với bản thân anh/chị được rút ra từ đoạn trích.
Đáp án:
1. B
2: D
3: D
4: C
5: A
6: D
7: Tác dụng của biện pháp nói quá:
+ Nhấn mạnh, gây ấn tượng về hành động dũng cảm của người anh hùng khi chiến đấu với kẻ thù và bày tỏ thái độ cảm phục của tác giả.
+ Làm cho lời văn sinh động, tăng sức biểu cảm.
8: Đoạn văn sử dụng cách trích dẫn trực tiếp bởi vì đưa nguyên văn suy nghĩ của nhân vật Ravana; được đặt trong dấu ngoặc kép.
9: Một bài học có ý nghĩa nhất với bản thân được rút ra từ văn bản:
- Trước khó khăn trong cuộc sống luôn có tinh thần dũng cảm và lòng quyết tâm.
- Luôn đề cao danh dự trong mỗi lời nói và việc làm.
- Trong cuộc chiến đấu hãy nỗ lực để giành chiến thắng.
Xem thêm các bài viết về định nghĩa và khái niệm môn Văn chọn lọc, hay khác:
- Kịch bản chèo/tuồng là gì?
- Truyện đồng thoại là gì?
- Truyện ngắn là gì?
- Truyện khoa học viễn tưởng là gì?
- Truyện lịch sử là gì?
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Đề thi lớp 1 (các môn học)
- Đề thi lớp 2 (các môn học)
- Đề thi lớp 3 (các môn học)
- Đề thi lớp 4 (các môn học)
- Đề thi lớp 5 (các môn học)
- Đề thi lớp 6 (các môn học)
- Đề thi lớp 7 (các môn học)
- Đề thi lớp 8 (các môn học)
- Đề thi lớp 9 (các môn học)
- Đề thi lớp 10 (các môn học)
- Đề thi lớp 11 (các môn học)
- Đề thi lớp 12 (các môn học)
- Giáo án lớp 1 (các môn học)
- Giáo án lớp 2 (các môn học)
- Giáo án lớp 3 (các môn học)
- Giáo án lớp 4 (các môn học)
- Giáo án lớp 5 (các môn học)
- Giáo án lớp 6 (các môn học)
- Giáo án lớp 7 (các môn học)
- Giáo án lớp 8 (các môn học)
- Giáo án lớp 9 (các môn học)
- Giáo án lớp 10 (các môn học)
- Giáo án lớp 11 (các môn học)
- Giáo án lớp 12 (các môn học)