Thuyết minh về cây tre Việt Nam mới nhất

Bài văn thuyết minh về cây tre Việt Nam hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh trên cả nước.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam mới nhất

Quảng cáo

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 1

Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc biệt với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ về kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre chúng tôi.

Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất cứ nơi đâu, đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tôi nghiêng mình trên những con đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, rồi dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng...

Khác với các loài cây khác, từ khi mới bắt đầu sinh ra, chúng tôi đã thể hiện sự ngay thẳng, điều đó các bạn có thể thấy ngay khi nhìn những mầm tre mọc thẳng tắp và dù trong bất cứ môi trường nào chúng tôi cũng vẫn vươn lên để sống mạnh mẽ và xanh tốt. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục,đậm dần xuống gốc . Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ ,bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác qủy dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ .

Quảng cáo

Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa theo gió, dang những cành tre che mát cho đàn con - những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sông được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:

"Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"...

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu, người Việt đã ví chúng tôi với phẩm chất quật khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tôi đã giúp ông Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chính chúng tôi đã dìm chết bao tàu chiến của địch khiến cho chúng khiếp sợ phải thua cuộc. Thưở đất nước còn chưa có vũ khí hiện đại như bây giờ, chúng tôi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù. Và trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chông nhọn hoắt sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được phong danh hiệu anh hùng bất khuất.

Quảng cáo

Không chỉ trong đánh giặc giữ nước, loài tre nhà chúng tôi còn rất có ích trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi khi về thăm một thôn xóm, một bản làng nào bạn cũng sẽ thấy vòng tay của chúng tôi dang rộng, ôm trọn và toả bóng mát cho cho cả dân làng. Trong vòng tay của chúng tôi, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặp cỏ. Những trưa hè, chúng tôi thật hạnh phúc khi được ngắm những khuôn mặt trẻ thơ say nồng giấc ngủ trong tiếng võng kẽo kẹt dưới khóm tre. Hơn thế chúng tôi còn là những vật liệu để bà con dựng nhà, những ngôi nhà được làm từ tre rất mát mẻ và sạch sẽ.

Dưới bóng chúng tôi là cả một nền văn hoá lâu đời đang từng ngày được nâng niu và gìn giữ. Trong đời sống sinh hoạt, chúng tôi còn làm ra những đồ dùng thân thuộc với mỗi người: đó là đôi đũa, là chiếc chõng tre, chiếc giường tre. Đối với mỗi gia đình nông dân, tre tôi là người bạn vô cùng thân thiết. Ngoài ra cây danh, nứa, một trong những họ nhà trẻ còn giúp con người chẻ lạt buộc nhà, nứa giúp cắm sào làm giàn cho bầu bí leo quấn quýt vào nhau. Tre còn gắn với tuổi già, cho họ chiếc ống điếu hút thuốc làm vui.

Quảng cáo

Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích. Dưới những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ còn trò gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi xa.

Tre chúng tôi còn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc, làm vơi đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn.

Ngày nay loài tre của chúng tôi còn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở Pháp đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre chúng tôi cũng vẫn sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền - đức tính Việt Nam.

Dàn ý Thuyết minh về cây tre Việt Nam

I. Mở bài:

- Giới thiệu về cây tre: Một loài cây quen thuộc ở Việt Nam, có mặt ở nhiều vùng quê và gắn bó mật thiết với đời sống con người.

II. Thân bài:

1. Hình dáng và đặc điểm sinh học:

- Cây thân thẳng, chia thành nhiều đốt, có màu xanh hoặc vàng.

- Rễ thuộc loại rễ chùm, phát triển mạnh, giúp tre bám chắc vào đất.

- Lá tre nhỏ, thuôn dài, mọc so le, có màu xanh tươi quanh năm.

- Hoa tre rất hiếm khi xuất hiện, thường chỉ nở một lần trong đời rồi cây chết.

- Tre sinh sản chủ yếu bằng măng, măng mọc nhanh và có thể phát triển thành cây trưởng thành trong thời gian ngắn.

2. Sự phân bố:

- Cây tre xuất hiện nhiều ở các nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam.

- Tre có thể mọc ở nhiều địa hình: Đồng bằng, trung du, miền núi.

- Thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới, có thể sống được ở cả vùng đất khô cằn lẫn đất ẩm ven sông.

3. Đặc tính sinh trưởng:

- Tre phát triển nhanh, dễ thích nghi, không cần chăm sóc nhiều.

- Có thể mọc thành bụi lớn hoặc thành rừng tre dày đặc.

- Khả năng chống chịu với gió bão tốt nhờ thân dẻo dai và rễ bám chắc vào đất.

III. Kết bài:

- Khẳng định cây tre là một loài cây đặc biệt, có nhiều giá trị trong tự nhiên và đời sống con người.

- Cần bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên tre để phục vụ nhu cầu sử dụng lâu dài.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 2

Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.

Tre là một loại cây khẳng khiu, có nhiều công dụng. Lá tre thường được người miền Nam lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sâu bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ông tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa.

Tre có một số loại thông dụng như: tre gai, tre xanh, tre ngà, tre rừng… Bên cạnh đó, nó còn có anh em bà con như: lồ ô, trúc, tầm vông… Tre xanh lúc còn sống có màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 – 8cm. Cao không đến 10m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm.

Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.

Hình ảnh cây tre dã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ. Chẳng hạn như: "Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo

Tre bao nhiễu lá bấy nhiêu cần cù

Nghiêng mình trong gió tre đu

Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành…"

(NGUYỄN DUY)

Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt:

"Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa

Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân"

Người ta còn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau:

"Tháng tám tre non làm nhà

Tháng năm tre già làm lạt"

Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau:

"Tre già là bà gỗ lim"

Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: “Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc đến”. Và từ đó người xưa còn rút ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người: “Tre già, măng mọc” tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành, một thứ không thể thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: “Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”.

Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: “Chẻ tre nghe Gióng”.

Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua… Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt non, béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được xắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn “bắt mắt”, nấu nhanh và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta xắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn vừa mát, kèm theo một vị ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt Nam.

Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Bằng chứng là những bộ salon làm bằng mây và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng xuất khẩu đắt giá. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đốn cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào dó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khán và buồn tẻ biết mấy!

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 3

Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả, được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre Việt Nam: Nước Việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng…”

“Tre xanh, xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”

Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.

Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.

Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phài ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng - hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Àn xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre (theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20 cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn côngtrong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập - Tự do cho Tổ Quốc. “Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…”

Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Út ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như: đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng: đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre.

Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng: “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước. Tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên ường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam.

Hà Nội tre không còn nhiều (Lăng Bác thì có tre ngà). Giờ mở rộng Hà Nội tre lại bát ngát các vùng quê ôm làng ôm xóm.Chiều về khói rơm không còn quấn quýt bên tre, (vì đun than, đun ga), nhưng tôi vẫn thấy cây tre vươn thẳng gắn bó với thôn quê dẫu bao năm đổi thay từng ngày lên phố.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 4

Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược – nhân tai.

Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá… bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…

Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.

Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 5

Ngày xửa ngày xưa, tôi chỉ là một mầm măng nhỏ được sinh ra tại một làng quê nghèo chất phác và mộc mạc. Từ lâu tôi đã thắc mắc không biết tổ tiên mình là ai và có từ khi nào.Chỉ biết rằng:

"Tre xanh xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh".

Thật đúng như vậy,họ hàng nhà tre chúng tôi đã có từ lâu đời,gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.

Thuở ấu thơ, tôi chỉ là một mầm măng yếu ớt với cái thân hình bé nhỏ hình nón,trên đầu nhọn hoắc và khoác ngoài nhiều lớp áo xếp chồng lên nhau bao lấy tấm thân nhỏ bé.Rồi tôi trưởng thành theo thời gian và trở thành một chàng tre đích thực. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục,đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ, bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác qủy dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ .

Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng.Cả nhà chúng tôi đung đưa tạo gió, dang những cành tre che mát cho đàn con-những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa .Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sông được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:

"Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"...

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, vai trò của tôi được nêu cao trong việc làm vũ khí đánh giặc như gậy, chông, mũi tên, cung tên,... góp phần mang lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam hôm nay. Trong cuộc sống của con người ngày hôm nay, tôi được xây dựng thành những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sông con người và đàn con thơ của họ. Trong bữa cơm hằng ngày của con người, tôi dược dùng để gắp thức ăn và con người gọi tên tôi là đũa, Dung tôi để gắp thức ăn không trơn trượt như đũa nhựa mà rất nhẹ và dùng gắp thức ăn rất dễ, lại rẽ tiền nữa! Sau mỗi bữa ăn, những người lớn dung tăm để xia răng được làm từ tôi. Mỗi sáng các chị em phụ nữ trên tay xách chiếc giỏ mây đi chợ, hay các ông các bà nhâm nhi tách trà nóng trên bộ bàn ghế được đan bằng mây. Vì vậy, ở quê hương tôi có nhiều người làm tăm tre, đũa tre, đan giường hay đan giỏ mây, bàn ghế mây. Các chị tre ngà có ngoại hình khá đẹp và ấn tượng thì được trồng làm cảnh. Ngoài ra, khi cuộc đời tôi đã chấm hết, thân hình chỉ còn là một cây tre gầy còm,xơ xác và khô héo lụi tàn, tôi vẫn được mọi người sử dụng để làm chất đốt vì dễ cháy và ngọn lửa mạnh.

Các bạn đã nghe câu:"Tre già măng mọc" chưa? Đó là chu kì sống của họ nhà tôi đấy! Dòng họ nhà tre chúng tôi sẽ duy trì nòi giống cho đến tận mai sau để gắn bó với con ng nhiều hơn, để dần đi vào tiềm thức của loài ng, để được ng đời nhớ mãi. Nhớ rằng tre như 1 người nông dân chất phác và mộc mạc, chịu thương chịu khó. Tre còn như một biểu tượng thiêng liêng cho một sức mạnh hung hồn, sự bền bỉ và chịu đựng ngoan cường, tinh thần bất khuất trước kẻ thù của đất nước ta, dân tộc ta trong lịch sử chông giặc ngoại xâm.Thân hình yếu ốm của loài tre chúng tôi như nước Nam ta thời xưa chưa hùng mạnh nhưng lại tiềm ẩn một sức mạnh phi thường , đánh đổ được tất cả những bão tố, khó khăn để đi đến một thắng lợi vẻ vang và chính nghĩa.

"Mai sau, mai sau, mai sau

Đất xanh xanh mãi xanh màu tre xanh"...

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 6

Hình ảnh cây tre xuất hiện từ rất lâu, từ khi Thánh Gióng dùng tre để đánh giặc giữ nước tre đã đi vào lịch sự của dân tộc ta, đã gắn bó son sắt với con người chúng ta.

Từ rất lâu đã có câu: Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Với câu này cây tre được ví như một anh hùng oai hùng bất khuất làm sao? Hi sinh mình để bảo vệ cho đất nước về mọi thứ gắn liền với những công việc, những hình ảnh mà người nông dân phải ngày đêm canh tác làm ra. Với câu nói ấy, dừng như tre đã đi vào tiềm thức của mỗi con người, đi vào lịch sữ của dân tộc.

Có thể nói cây tre rất có giá trị trong mọi mặc, đầu tiên phải nói trong nền văn hóa. Với cây tre nó gắn liền với những nền văn hóa cỗ xưa, từ rất lâu nó đã trỡ thành một vật gì đó vô cũng hiện hữu trong dân tộc. ngày nay cây tre đã trở thành những món đặc sản đặc sắc trong nên văn hóa nhờ bàn tay khéo léo của những con người nông dân.

Trong nền kinh tế, cây tre vẫn đống một vai trò quan trọng. cây tre đã được con người chế tạo thành những thành phẩm vô cũng đáng yêu và có giá trị xuất khẩu. Với vóc dáng nhỏ nhắn mà xinh xắn làm sao, thân cây nhỏ dài được nhiều đốt, mọc thẳn. với vóc dáng của thân cây, con người dúng nó để đan các loại rỗ, rá, cốt, ví, làm tăm… và nhiều đồ dúng có giá trị cao khác. Khi cây tre còn nhỏ còn gọ là măng đây là một loại thức ăn rất có giá trị và được nhiều người ưa chuộng. Lá tre nhỏ với một màu xanh sáng sửa, con người dùng nó để làm thức ăn cho trâu bò. Tre có gai nếu không chú ý thì dể bị gai đâm đó với chi tiết này cho thấy tre rát sắc bén và thể hiện sự son sắc ở đây.

Không chỉ có thế, tre được mọc thành bụi, chùm. Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.

Có thể nói, tre có giá trị rất lớn đối với con người Việt Nam. Vì vậy hãy biết nâng niu gìn giữ nhưng gì mà đất nước ta đã, có đừng lãng phí nó một cách vô ích. Nó là một người bạn rất thân thiết của con người.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 7

Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá... bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường...), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…

Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm... nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.

Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi... tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.

Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,...Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài "Cây tre VN: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng..."

“Tre xanh, xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh...”

Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,... và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,... Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.

Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.

Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “...Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc...”. Không phài ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng - hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Àn xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh.

Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre (theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn côngtrong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập_ Tự do cho Tổ Quốc. “ Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,...”

Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Út ống tre, cây tre trăm đốt,...) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre: “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,... Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,... Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm... Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng: đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre.

Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng : “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước_tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên ường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 8

Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.

Nước Việt Nam xanh tươi với muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất là tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… đâu đâu ta cũng có tre nứa làm bạn.

Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm măng mọc thẳng. Vào đầu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị chí khi như người.

Nhà thơ đã có lần ca ngợi:

Bóng tre trùm mát rượi

Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân.

Cánh đồng ta năm đôi ba vụ

Tre với người vất vả quanh năm.

Tre với người như thế đã mấy nghìn năm. Một thế kỉ “văn minh”, “khai hóa” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người. Cối tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.

Trong mỗi gia đình nông dân Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày.

Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:

Lạt này gói bánh chưng xanh

Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng.

Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ. Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền chắt bằng tre.

Tuổi già hút thuốc làm vui. Vớ chiếc điếu cày tre là khoan khoái. Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ khác…

Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm tre giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thủy.

Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất.

Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngang vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc.

Buổi đầu, không có một tất sắc trong tay, tre là là vũ khí. Muôn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên thành đồng Tổ quốc ! Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre.

Gây tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động ! Tre, anh hùng chiến đấu !

(…) Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác khúc nhạc đồng quê.

Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…

Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời…

Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều.

Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…

“Tre già măng mọc”. Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi măng cốt sắt. Nhưng nứa, tre sẽ còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi mát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hòa bình. Ngày mai, trên đất nước này, sắt thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng trên đường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi.

Cây Tre Việt Nam! Cây Tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 9

Tre là một trong những loài cây quen thuộc ở Việt Nam, xuất hiện khắp các làng quê và gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Không chỉ là một loài cây có giá trị kinh tế, tre còn mang trong mình những đặc điểm sinh học độc đáo, khả năng sinh trưởng mạnh mẽ và vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.

Cây tre có thân thẳng, phân thành nhiều đốt rõ ràng, giúp cây vững chắc và dẻo dai trước tác động của thiên nhiên. Tùy vào từng loại, thân tre có thể có màu xanh hoặc vàng, bề mặt nhẵn, bóng. Bên trong thân tre rỗng, nhưng lại rất cứng cáp nhờ cấu trúc đặc biệt của sợi gỗ, giúp cây vừa nhẹ vừa bền.

Hệ rễ của tre thuộc loại rễ chùm, phát triển mạnh, lan rộng trong lòng đất, giúp cây bám chắc vào nền đất, chống xói mòn và bảo vệ đất đai. Nhờ hệ rễ này, tre có thể sinh trưởng trên nhiều loại địa hình khác nhau mà không cần quá nhiều dinh dưỡng.

Lá tre nhỏ, thuôn dài, mọc so le trên cành, có màu xanh tươi quanh năm, giúp cây luôn tràn đầy sức sống. Một trong những đặc điểm hiếm có của cây tre là hoa tre rất ít khi xuất hiện. Tre thường chỉ ra hoa một lần trong suốt vòng đời của mình, sau đó cây sẽ tàn lụi. Đây là một hiện tượng sinh học đặc biệt, khiến cây tre trở thành một loài cây bí ẩn và khác biệt so với nhiều loài thực vật khác.

Tre sinh sản chủ yếu bằng măng. Măng mọc nhanh, có thể phát triển thành cây trưởng thành trong một thời gian ngắn. Nhờ đặc tính này, tre có thể tái sinh nhanh chóng, duy trì sự phát triển của cả bụi tre hoặc rừng tre mà không cần tác động của con người. Tre là một trong những loài cây phổ biến ở nhiều nước châu Á, đặc biệt là tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… Ở Việt Nam, tre xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đồng bằng đến trung du và miền núi.

Tre có khả năng thích nghi cao, có thể sinh trưởng ở nhiều loại địa hình khác nhau. Dù là vùng đất phù sa màu mỡ hay vùng đất khô cằn, tre vẫn có thể phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, ở những khu vực ven sông, tre góp phần quan trọng trong việc giữ đất, ngăn xói mòn, giúp cân bằng hệ sinh thái.

Tre nổi bật với tốc độ sinh trưởng nhanh, có thể phát triển trong thời gian ngắn mà không cần nhiều sự chăm sóc từ con người. Một bụi tre mới có thể mọc lên chỉ sau một thời gian ngắn từ khi có măng non xuất hiện. Tre thường mọc thành từng bụi lớn hoặc tạo thành những rừng tre rậm rạp. Rừng tre không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên phong phú mà còn là nơi cư trú của nhiều loài động vật.

Một đặc điểm quan trọng khác của tre là khả năng chống chịu với thời tiết khắc nghiệt. Thân tre tuy mảnh nhưng lại rất dẻo dai, có thể uốn cong theo gió mà không bị gãy đổ. Hệ rễ bám sâu và chắc vào lòng đất giúp cây đứng vững ngay cả trong điều kiện bão lớn. Chính vì vậy, tre không chỉ là một loài cây quen thuộc mà còn là biểu tượng của sự kiên cường, bền bỉ trong thiên nhiên.

Cây tre là một loài thực vật đặc biệt với nhiều giá trị sinh học, môi trường và kinh tế. Không chỉ có khả năng sinh trưởng mạnh mẽ, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu, tre còn là một nguồn tài nguyên quý giá, góp phần bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên.

Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo tồn và phát triển cây tre là điều vô cùng cần thiết. Tre không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn là một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam. Vì vậy, mỗi chúng ta cần có ý thức gìn giữ và phát triển nguồn tài nguyên tre để phục vụ đời sống và bảo vệ môi trường bền vững.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 10

Trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam, từ vùng đồng bằng đến miền núi, từ bờ sông đến làng quê, cây tre xuất hiện như một hình ảnh quen thuộc và gắn bó mật thiết với con người. Không chỉ mang giá trị kinh tế, tre còn có những đặc điểm sinh học đặc biệt, giúp nó trở thành loài cây có sức sống mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.

Cây tre có dáng thẳng, thân trụ tròn, chia thành nhiều đốt rõ ràng, tạo nên kết cấu vững chắc nhưng vẫn mềm dẻo. Bên ngoài, thân tre có màu xanh hoặc vàng, nhẵn bóng, trong khi bên trong rỗng, giúp cây có trọng lượng nhẹ nhưng vẫn chịu lực tốt. Chính nhờ đặc điểm này mà tre được sử dụng nhiều trong xây dựng, sản xuất đồ dùng và làm nguyên liệu cho các ngành thủ công mỹ nghệ.

Bộ rễ của tre thuộc dạng rễ chùm, đan xen và lan rộng trong lòng đất, giúp cây bám chắc vào đất, chống xói mòn và bảo vệ nguồn tài nguyên đất. Nhờ hệ rễ phát triển này, tre có thể sinh trưởng tốt ngay cả trong điều kiện khô cằn hoặc đất nghèo dinh dưỡng. Lá tre nhỏ, dài, mọc xen kẽ dọc theo cành, xanh tươi quanh năm. Dù không quá nổi bật nhưng lá tre góp phần quan trọng vào hệ sinh thái, cung cấp bóng mát và tạo nơi cư trú cho nhiều loài chim, côn trùng. Một đặc điểm đặc biệt của cây tre là hoa của nó rất hiếm khi xuất hiện. Cây tre thường chỉ ra hoa một lần trong đời, sau đó cây sẽ dần khô héo và chết đi. Đây là một hiện tượng sinh học độc đáo, khiến tre trở thành loài cây có vòng đời khác biệt so với nhiều loài thực vật khác.

Tre sinh sản chủ yếu bằng măng. Mỗi khi măng mọc lên từ lòng đất, nó có tốc độ phát triển rất nhanh, chỉ trong một thời gian ngắn có thể vươn cao và trở thành một cây tre trưởng thành. Nhờ đặc tính này, tre có khả năng tái sinh mạnh mẽ mà không cần con người can thiệp quá nhiều.

Tre là loài cây phổ biến ở nhiều nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… Ở Việt Nam, tre có mặt ở khắp mọi nơi, từ miền xuôi đến miền ngược, từ những vùng đồng bằng màu mỡ đến các khu vực đồi núi khô cằn.

Với khả năng thích nghi tốt, tre có thể phát triển trên nhiều loại địa hình khác nhau. Những lũy tre làng xanh mát nơi đồng bằng, những rừng tre rậm rạp trên vùng núi cao hay những khóm tre ven sông đều là minh chứng cho sức sống bền bỉ của loài cây này. Không chỉ giúp bảo vệ đất, chống xói mòn, tre còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hệ sinh thái tự nhiên. Tre là một trong những loài cây có tốc độ phát triển nhanh nhất. Từ khi còn là một mầm măng nhỏ, chỉ cần vài tháng, nó có thể vươn cao thành cây trưởng thành. Tre không đòi hỏi quá nhiều sự chăm sóc, có thể tự sinh trưởng mà không cần bón phân hay tưới nước thường xuyên.

Cây tre thường mọc thành từng bụi hoặc tạo thành những rừng tre dày đặc. Nhờ vào hệ thống rễ phát triển mạnh mẽ, tre có khả năng chống chịu tốt với gió bão. Thân tre tuy mảnh mai nhưng lại dẻo dai, có thể uốn cong theo chiều gió mà không bị gãy đổ, thể hiện rõ tinh thần kiên cường và linh hoạt của loài cây này.

Cây tre không chỉ là một loài cây bình dị trong tự nhiên mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người. Với khả năng sinh trưởng nhanh, thích nghi tốt và đóng góp to lớn vào môi trường, tre xứng đáng được bảo tồn và phát triển hơn nữa. Trong thời đại hiện nay, khi biến đổi khí hậu và môi trường bị đe dọa, việc trồng tre không chỉ giúp bảo vệ thiên nhiên mà còn mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và sinh thái. Vì vậy, mỗi người chúng ta cần có ý thức trân trọng và bảo vệ những rừng tre, để loài cây kiên cường này tiếp tục gắn bó với con người và quê hương Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 11

Từ xa xưa, cây tre đã là bạn đồng hành thân thiết trong cuộc sống của người Việt. Tre hiện diện khắp mọi miền đất nước.

Cây tre, một loại cây gỗ lâu năm, thân thẳng, mọc thành từng cụm, mỗi cây khoảng ba mươi đốt, sinh sản từ gốc ra những chồi gọi là măng. Bên trong thân tre có màu trắng, ruột rỗng. Chiều cao cây tre trưởng thành khoảng mười mét. Cây tre cũng ra hoa, tuy nhiên chu kỳ nở hoa kéo dài từ năm mươi đến sáu mươi năm. Ở Việt Nam, tre mọc khắp mọi nơi từ Nam ra Bắc, đặc biệt nhiều ở vùng nông thôn như Thái Bình, Hòa Bình, Nam Định, Bắc Giang, Thanh Hóa,... Tre gắn liền với văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam.

Cây tre có nhiều công dụng. Thân tre nhẹ, bền và dễ gia công, thường được dùng xây dựng nhà cửa, cầu đường, tường rào,... Nó cũng được sử dụng trong sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, đồ trang trí,... Lá tre được dùng làm tài liệu viết và còn có tác dụng trị bệnh. Một số loại hoa tre có thể dùng để nấu canh, món chiên, món xào, nấu chè. Tre gắn liền với đời sống hàng ngày của người Việt.

Trong tâm thức của người Việt, cây tre không chỉ là một loại cây thông thường, mà còn gắn liền với tinh thần yêu nước. Tre đã thể hiện vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam qua việc gìn giữ quê hương, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nó còn mang lại nét đẹp tinh thần cho làng quê Việt Nam, tạo nên sự bất khuất và kiên cường của dân tộc.

Qua những công dụng của cây tre, ta thấy được vai trò của nó trong cuộc sống và tinh thần của nhân dân Việt Nam. Dù cuộc sống hiện đại hơn, cây tre vẫn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của người Việt.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 12

Cây tre, mặc dù khiêm tốn nhưng lại có rất nhiều công dụng đáng kinh ngạc. Lá tre thường được dùng để gói bánh vào dịp Tết Đoan Ngọ. Thân tre thì được sử dụng làm đũa, muỗng; còn thợ thủ công thì tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre; người dân còn sử dụng ống tre để đong dầu, đong nước mắm khi mua bán. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, thân tre còn được chẻ nhỏ để làm tăm cho khách sau bữa ăn. Thậm chí, người nông dân còn dùng thân tre để nhóm bếp.

Tre có nhiều loại như tre gai, tre xanh, tre ngà, tre rừng… Nó còn có những loại 'anh em' như lồ ô, trúc, tầm vông… Tre xanh khi còn sống có màu xanh mượt, lá dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành từ 6cm đến 8cm, cao không quá 10m. Tre gai thì nhỏ hơn và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn, nhưng mỗi đốt tre lại mọc ra rất nhiều nhánh, gai sắc, thích hợp để trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp, thường được trồng làm cảnh. Tre rừng thì mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm. Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, gấp hai, ba lần tre xanh về kích thước. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng, trong vùng đất hoang.

Người ta sử dụng thân tre để xây dựng nhà tranh, nhà sàn vững chắc. Lồ ô to lớn nhưng trúc lại mảnh mai, yếu ớt hơn vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây, người ta còn nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây trúc kiểng này có hình dạng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được ưa chuộng để trồng làm cảnh, bày ở mái hiên, phòng khách.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 13

Trải dài khắp đất nước Việt Nam là hàng loạt cây cối, mỗi loài mang một vẻ đẹp, một vai trò riêng trong cuộc sống của con người. Và suốt hàng thế kỷ, cây tre vẫn luôn là biểu tượng gắn bó, thân thuộc với làng quê Việt Nam, đất nước chúng ta.

Tre là một loài cây phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó thuộc tông tre, phân họ tre, bộ hòa thảo, cùng với nhiều loại cây khác như nứa, vầu, trúc,... Tre là cây thân xanh, sống nhiều năm, được trồng ở nhiều nơi khác nhau.

Tre được phân loại thành nhiều loại như tre gai, tre mạnh tông, tre vàng sọc,... Mỗi loại đều có đặc điểm riêng nhưng đều mang những đặc trưng chung của tre. Chiều cao trung bình của cây tre là khoảng tám đến mười mét, thân tre được chia thành nhiều đốt và thường rỗng bên trong. Lá tre thường dài, mỏng và có gân lá song song theo chiều dọc. Tre cũng có hoa nhưng ít khi nở, thường chỉ nở một lần vào cuối vòng đời.

Tre không chỉ là loài cây quen thuộc mà còn mang ý nghĩa to lớn trong đời sống của người Việt Nam. Măng tre là món ăn quen thuộc và có giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, tre còn được sử dụng trong sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ và là nguồn nguyên liệu quan trọng cho nhiều vật dụng hữu ích trong cuộc sống hàng ngày.

Tre, loài cây gần gũi với mọi người nhưng lại mang ý nghĩa to lớn trong văn hóa và lịch sử dân tộc. Cây tre không chỉ là biểu tượng của làng quê Việt Nam mà còn thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 14

Cây tre đã lâu lắm rồi đã trở thành một người bạn thân thiết của người Việt. Hình ảnh tre là điều gần gũi với không gian làng quê Việt Nam, là biểu tượng cao quý của dân tộc.

Không ai biết rõ từ khi nào cây tre đã trở nên gần gũi với dân tộc Việt Nam. Từ những ngày đầu dựng nước, giữ nước, cây tre đã là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và lịch sử của dân tộc. Cây tre mọc khắp nơi từ miền Bắc đến miền Nam, từ miền núi đến miền biển. Họ hàng nhà tre rất đa dạng, phong phú như tre Đồng Nai, tre Việt Bắc, trúc Lam Sơn, nứa, vầy, dang, hóp, lạt,...

Tre có những đặc điểm độc đáo, khác biệt. Mầm măng tre từ nhỏ đã nhọn như cái chông, luôn hiên ngang đón nhận ánh nắng, gió của trời. Rễ tre bám chắc vào đất giúp cây đứng vững trước mọi thử thách. Thân tre gầy guộc, rỗng và khoác bộ áo xanh thẫm. Lá tre nhỏ, xanh mơn mởn với những đường gân ở phía sau. Mỗi khi có gió, lá tre lại chao lìa như những chiếc thuyền nan tí hon.

Tre không mọc một mình mà thường mọc thành từng bụi, từng lũy. Khắp xóm làng, những khóm tre xanh rì đã tạo nên bóng mát dễ chịu cho những ngôi nhà và là nơi vui chơi lý tưởng của trẻ con. Dưới bóng mát của tre, trẻ em đã tạo ra những trò chơi đầy thú vị như đan vòng tay bằng búp tre, xây hóp cho các bạn nam... Các cụ già ngồi dưới gốc tre, kể chuyện thú vị và làm ra những chiếc điếu thuốc từ tre.

Trong nông nghiệp, tre là cánh tay đắc lực của người nông dân, từ thân tre mà chế tạo ra nhiều công cụ như cán cuốc, cán cào... Nghệ nhân cũng biến tre thành những sản phẩm nghệ thuật đẹp mắt, mang lại nguồn thu nhập lớn.

Trong cuộc chiến đấu, tre là đồng chí dũng cảm của dân tộc. Từ thời trung đại đến kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, tre luôn là vũ khí không thể thiếu, sẵn sàng hy sinh vì dân tộc.

Cây tre là biểu tượng của lòng dũng cảm, sự kiên cường của con người Việt Nam. Dù cuộc sống hiện đại thay đổi nhưng cây tre vẫn là biểu tượng không thể thiếu trong tâm trí người Việt.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 15

Tôi là một người bạn đồng hành thân thiết của con người, luôn bên cạnh họ không chỉ trong những thời kỳ gian khó có giặc ngoại xâm mà còn trong những thời điểm bình yên. Sức sống của tôi đến từ việc sống gần gũi, nương tựa vào nhau, tạo nên sự kiên cường và mãnh liệt.

Là một cây tre trẻ, tôi mang trong mình sự khỏe mạnh và nhiệt huyết, thể hiện qua thân thẳng và cao vút. Gia đình của tôi gồm tre ông, tre bố, tre mẹ, tre bà và một cây tre em, mỗi thành viên đều có vai trò và vị trí đặc biệt.

Tôi là người con trưởng trong gia đình tre, mang trong mình sự cứng cáp và vững chắc nhưng không kém phần linh hoạt và mềm dẻo. Thân tre của tôi được kết nối bởi những mấu tre, giúp tôi duy trì sự ổn định và phát triển qua từng giai đoạn.

Thân tre của tôi được chia thành nhiều đốt, mỗi đốt là một bước tiến trong quá trình phát triển của tôi. Nhờ những đốt tre này mà tôi có thể vươn lên cao, mạnh mẽ hơn.

Một phần không thể bỏ qua khi nói về gia đình tre chính là lá, chúng mảnh mai, dài ra và có nhiều công dụng nhưng cũng được con người sử dụng để lấy nước xông hơi khi cảm lạnh.

Còn có những chiếc lá non được cuộn tròn thành nõn tre, làm vật dụng dịu nhẹ để loại bỏ bụi hoặc côn trùng ra khỏi mắt con người. Lá của chúng tôi mọc chủ yếu ở phần ngọn của cây.

Cành tre phát triển gần nhau ở phần trên, trong khi thân cây được bao phủ bởi các khúc tre. Rễ tre được hình thành thành chùm tròn, giúp chúng tôi vững chắc và thoải mái khi đung đưa dưới sức gió.

Chúng tôi có vai trò quan trọng trong cuộc sống, không chỉ trong chiến tranh mà còn trong thời bình. Dù không mạnh mẽ nhưng chúng tôi lại rất rắn chắc, được chế tạo thành vũ khí hữu ích như gậy, mũi tên hay chông để bảo vệ dân tộc.

Những chiếc chông này rất lợi hại, khiến kẻ thù không thể thoát ra khỏi vòng vây. Chúng tôi luôn sát cánh bên những người dũng cảm, những chiến sĩ và nông dân trong mọi trận chiến.

Dù chỉ là vũ khí thô sơ, nhưng dưới tay con người và lòng quyết tâm mạnh mẽ, chúng tôi đã trở thành vũ khí lợi hại nhất, không thể chống lại được bởi vũ khí hiện đại của địch. Niềm tự hào của chúng tôi khi đất nước giành được độc lập và tự do là không gì sánh kịp.

Trong chiến đấu hay trong cuộc sống hàng ngày, chúng tôi vẫn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của con người Việt Nam, được sử dụng trong nhiều mục đích từ đũa, gậy, đến các dụng cụ gói ghém, thắt buộc. Dù vai trò của chúng tôi không còn như xưa, nhưng chúng tôi vẫn là biểu tượng của sức mạnh và kiên cường của dân tộc.

Chúng tôi đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và cứng cỏi của người Việt Nam, được biết đến và tôn trọng không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Mỗi người dân Việt Nam đều tự hào về chúng tôi và họ nhà tre, vì chúng tôi là phần không thể thiếu của cuộc sống.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 16

Từ ngàn đời nay, hình ảnh cây tre đã trở nên thân thuộc, gần gũi trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Trên khắp làng quê đất nước, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp những bụi tre xanh rì rào trong gió, soi bóng xuống mặt ao làng, đứng vững vàng bên lũy tre đầu xóm. Tre không chỉ là một loài cây đơn thuần mà còn là biểu tượng cho tâm hồn, cho phẩm chất mộc mạc, kiên cường của người Việt Nam.

Cây tre thuộc họ Hòa thảo, xuất hiện nhiều ở các nước có khí hậu nhiệt đới châu Á, trong đó có Việt Nam. Tre mọc khắp ba miền đất nước, từ đồng bằng đến miền núi, từ ven sông đến triền đồi, đặc biệt là ở các làng quê. Tre không ưa đất phèn, đất mặn nhưng lại phát triển rất tốt ở những nơi đất thịt, đất phù sa màu mỡ. Chính vì vậy, tre đã trở thành một phần không thể thiếu trong không gian sống và sinh hoạt của người dân nông thôn.

Cây tre có thân thẳng đứng, tròn, rỗng ruột, được chia thành nhiều đốt. Thân tre có màu xanh hoặc vàng nhạt, vừa dẻo vừa cứng, rất bền theo thời gian. Lá tre mảnh, dài, có hình lưỡi mác, mọc so le, xanh quanh năm. Tre có bộ rễ chùm, bám chặt vào đất giúp cây đứng vững trước gió bão. Dù không cao lớn như cây cổ thụ, không hoa rực rỡ như các loài cây cảnh, nhưng tre lại có sức sống dẻo dai, bền bỉ, vươn lên mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt.

Không chỉ là một loài cây quen thuộc, cây tre còn mang đến nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống hằng ngày. Thân tre được dùng làm vật liệu xây dựng nhà cửa, làm cột, làm xà, hoặc đan lát thành các đồ dùng như giỏ, rổ, rá, đũa, cán cuốc, cán chổi… Lá tre được dùng để gói bánh hoặc làm chất đốt. Rễ tre có thể dùng làm thuốc trong Đông y. Đặc biệt, cây tre từng đóng vai trò quan trọng trong các cuộc kháng chiến của dân tộc. Người xưa đã sử dụng tre để làm chông, làm gậy gộc chống giặc, thể hiện tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của nhân dân ta.

Cây tre còn là biểu tượng văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt. Trong văn học dân gian, hình ảnh lũy tre làng luôn gắn bó với hình ảnh làng quê yên bình, nơi chôn nhau cắt rốn của bao thế hệ người Việt. Những câu ca dao như:

“Tre xanh, xanh tự bao giờ,
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”

Đã khắc họa rõ nét vị trí quan trọng của tre trong đời sống tinh thần của người Việt. Tre đại diện cho con người Việt Nam – mộc mạc, giản dị nhưng kiên cường, bất khuất trước mọi thử thách, gian lao.

Từ thuở lọt lòng cho đến khi nằm xuống, con người Việt Nam đều có bóng tre đồng hành. Nôi tre ru em bé ngủ, đòn gánh tre theo mẹ ra đồng, lũy tre che chở ngôi nhà trước gió bão. Ngay cả khi mất đi, người ta cũng gói chiếc áo quan bằng chiếc chiếu đan từ tre. Có thể nói, cây tre là người bạn thủy chung suốt đời với người nông dân, là một phần hồn cốt dân tộc.

Ngày nay, dù đất nước đang trên đà hiện đại hóa, cây tre vẫn hiện diện như một biểu tượng truyền thống quý báu. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ tre không chỉ được sử dụng trong nước mà còn xuất khẩu ra thế giới, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam. Những lũy tre xanh vẫn tiếp tục vươn lên, chứng minh sức sống mạnh mẽ và phẩm chất cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, cây tre không chỉ là loài cây hữu ích mà còn là biểu tượng đẹp đẽ của làng quê, của con người Việt Nam. Hình ảnh cây tre – mộc mạc, dẻo dai và kiên cường – sẽ mãi là niềm tự hào, là biểu tượng tinh thần bền vững của đất nước ta.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 17

Không phải là loài cây cao lớn, cũng chẳng rực rỡ hoa trái, nhưng cây tre lại mang trong mình một vẻ đẹp riêng, giản dị mà sâu sắc. Từ bao đời nay, tre đã hiện diện như một người bạn thân thiết của làng quê Việt Nam. Dưới bóng tre, bao thế hệ đã lớn lên, đã sống, đã yêu thương và cùng nhau xây dựng cuộc sống yên bình. Tre không chỉ là loài cây của đất trời mà còn là biểu tượng của tinh thần dân tộc.

Cây tre thuộc họ Hòa thảo, thường mọc thành từng bụi hoặc rặng dài. Tre có thân thẳng, tròn, chia nhiều đốt, rỗng ruột nhưng lại vô cùng cứng cáp. Lá tre mảnh, dài, sắc cạnh và có màu xanh mướt quanh năm. Điều đặc biệt ở tre là sức sống mãnh liệt – dù ở vùng đất khô cằn hay ẩm thấp, tre vẫn vươn mình, phát triển mạnh mẽ. Tre có khả năng đẻ nhánh bằng chồi non, nên cứ "tre già măng mọc", một vòng đời lặng lẽ mà bền bỉ, chẳng bao giờ dứt.

Ở nông thôn Việt Nam, tre hiện diện khắp nơi: bên bờ ao, sau vườn nhà, dọc triền đê hay ven những con đường đất đỏ. Tre không chỉ mang đến bóng mát mà còn có vô vàn công dụng thiết thực. Thân tre được dùng làm vật liệu xây dựng, từ dựng nhà, làm cầu, làm cột cho đến đan lát các vật dụng như rổ, rá, đòn gánh, thúng mủng. Lá tre được dùng để gói bánh, làm thức ăn cho gia súc hoặc làm chất đốt. Ngay cả ngọn tre – búp măng – cũng trở thành món ăn dân dã, ngọt bùi trong mâm cơm gia đình. Với người nông dân, cây tre là người bạn trung thành, là trợ thủ đắc lực trong sản xuất và đời sống hàng ngày.

Không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất, cây tre còn có vị trí đặc biệt trong tâm hồn người Việt. Tre là biểu tượng của sự ngay thẳng, kiên cường, bất khuất – cũng như phẩm chất của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Trong kháng chiến, tre từng là vũ khí thô sơ mà hiệu quả: chông tre, gậy tre, cung tre – đã cùng nhân dân bảo vệ từng tấc đất quê hương. Còn trong thời bình, tre góp mặt trong nghệ thuật, thơ ca, âm nhạc như một phần máu thịt của văn hóa dân tộc.

“Tre xanh, không đứng khuất nắng,
Tre đứng thẳng, thẳng như người...”

Những câu thơ ấy của Nguyễn Duy đã khắc họa sinh động tinh thần của tre – thẳng thắn, trung kiên, không ngại nắng gió. Tre đứng bên người, đứng bên làng, như một phần hồn cốt quê hương. Tre gợi nhớ đến sự mộc mạc, chân chất, gắn bó sâu đậm với bao ký ức tuổi thơ: tiếng sáo tre đầu làng, chiếc nôi tre đưa giấc ngủ, trò chơi cưỡi ngựa tre của trẻ nhỏ, hay những mùa hè ngồi hóng mát dưới lũy tre bên bờ sông...

Ngày nay, giữa guồng quay của đô thị hóa và hiện đại hóa, cây tre vẫn giữ nguyên giá trị. Các sản phẩm thủ công từ tre ngày càng được ưa chuộng trong và ngoài nước nhờ tính thân thiện với môi trường. Tre không chỉ là cây của quá khứ, mà còn là tài nguyên của tương lai – đại diện cho xu hướng sống xanh, bền vững.

Cây tre – giản dị mà cao quý, âm thầm mà kiên cường – chính là biểu tượng sống động của làng quê Việt Nam. Tre không chỉ là một loài cây, mà là một phần máu thịt, là linh hồn của dân tộc. Dù thời gian có trôi qua, dù cuộc sống có đổi thay, thì hình ảnh lũy tre xanh vẫn mãi là ký ức đẹp trong lòng mỗi người Việt.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 18

Nếu ai đó hỏi tôi về âm thanh của quê hương, tôi sẽ nói đó là tiếng lá tre xào xạc trong gió chiều. Nếu ai đó hỏi về màu sắc của làng quê Việt, tôi sẽ trả lời rằng đó là màu xanh bền bỉ của lũy tre già bên dòng sông. Tre không cần lộng lẫy, chẳng ồn ào khoe sắc, nhưng âm thầm, vững chãi hiện diện như một chứng nhân của bao thế hệ, bao đổi thay nơi làng quê yên bình. Tre không chỉ là một loài cây – tre là tâm hồn, là ký ức, là hình ảnh Việt Nam thu nhỏ.

Cây tre thuộc họ Hòa thảo, mọc nhiều ở vùng nhiệt đới châu Á và đặc biệt phổ biến tại Việt Nam. Tre sống thành bụi, thân thẳng, chia nhiều đốt đều đặn, bên trong rỗng ruột nhưng lại chắc chắn đến lạ thường. Lá tre dài, hẹp, nhọn và có sắc xanh đặc trưng, luôn rung rinh trước gió như đang thì thầm chuyện làng. Mỗi bụi tre có thể sống lâu năm, không cần nhiều phân bón, ít sâu bệnh, nhưng lại có sức sống mãnh liệt, vươn lên bất chấp thời tiết khắc nghiệt. Một cây tre già đi, lập tức có măng non thế chỗ, “tre già măng mọc” – như một chu trình tái sinh không ngừng nghỉ của tự nhiên và cũng là hình ảnh đẹp về tinh thần kế tục của dân tộc.

Tre ở làng quê Việt Nam không đơn thuần là cây cảnh hay bóng mát. Tre gắn với đời sống thực tế của người dân: từ mái nhà lợp lá tre, đến chiếc nôi tre đưa em bé ngủ, từ cán cuốc, cán chổi, rổ rá, đòn gánh… đến những chiếc cầu tre nhỏ bắc qua mương nước. Tre hiện diện trong mọi ngóc ngách cuộc sống, như người bạn lam lũ mà thủy chung. Lá tre dùng để gói bánh, thân tre dùng làm đồ gia dụng, măng tre thành món ăn quen thuộc. Ngay cả khi chết đi, cây tre vẫn tiếp tục cống hiến.

Không chỉ trong đời sống vật chất, tre còn là biểu tượng tinh thần của người Việt. Tre gợi nhắc đến sự thẳng thắn, ngay ngắn, dẻo dai mà bền bỉ – giống như phẩm chất bao đời của cha ông. Trong thời chiến, tre không ngần ngại đứng lên thành vũ khí: là gậy gộc chống giặc, là chông tre sắc nhọn, là những hàng rào kiên cố giữ làng giữ nước. Trong thời bình, tre đi vào thơ ca, nhạc họa, trở thành cảm hứng bất tận. Từ truyện cổ tích “Thánh Gióng nhổ bụi tre đánh giặc” đến những vần thơ hiện đại, tre là biểu tượng sống động của lòng yêu nước, của sức mạnh nội sinh, của tình quê mộc mạc.

Giữa xã hội hiện đại ngày nay, khi bê tông, sắt thép dần thay thế các chất liệu truyền thống, cây tre vẫn khẳng định vị trí của mình. Sản phẩm thủ công từ tre như đồ trang trí, nội thất, đồ dùng sinh hoạt… ngày càng được ưa chuộng vì thân thiện với môi trường và mang nét đẹp truyền thống. Các làng nghề đan lát tre truyền thống vẫn giữ được hơi thở xưa cũ, vừa bảo tồn di sản, vừa tạo sinh kế cho nhiều gia đình.

Tre không ồn ào, tre không đòi hỏi được ghi công, nhưng luôn hiện diện, lặng lẽ và trung thành. Tre là tiếng ru của bà, là dáng mẹ gánh hàng ngang lối tre, là bóng râm của tuổi thơ, là linh hồn của làng. Cây tre Việt Nam – mộc mạc, xanh bền – đã, đang và sẽ mãi là một phần máu thịt của đất nước, như một nhịp thở xanh dịu dàng mà vững chắc giữa những đổi thay.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 19

Mỗi dân tộc đều có một biểu tượng văn hóa mang đậm tinh thần của con người và vùng đất ấy. Nếu Nhật Bản có hoa anh đào, Trung Quốc có cây trúc, thì Việt Nam chúng ta tự hào có cây tre – loài cây bình dị, khiêm nhường nhưng ẩn chứa sức sống mãnh liệt. Từ bao đời nay, tre đã không chỉ là loài cây quen thuộc mà còn là chứng nhân lịch sử, là biểu tượng văn hóa gắn bó với con người Việt Nam như hình với bóng.

Cây tre thuộc họ Hòa thảo, là loài thực vật thân thảo mọc thành cụm, có thân rỗng, cao từ 3 đến 10 mét tùy loài. Tre thường mọc ở vùng đất ẩm, ven sông, bờ ruộng hoặc quanh làng quê. Đặc điểm nổi bật của tre là thân thẳng, có đốt đều nhau, ruột rỗng nhưng lại rất dẻo dai và bền chắc. Lá tre hình lưỡi mác, nhỏ, nhọn, có màu xanh thẫm và thường rì rào khi có gió, tạo nên một âm thanh thân thuộc của làng quê. Tre sinh trưởng nhanh, có sức sống mãnh liệt và khả năng tái sinh cao, với đặc tính “tre già măng mọc” thể hiện tinh thần tiếp nối bất tận.

Ở nông thôn Việt Nam, cây tre hiện diện trong từng ngóc ngách cuộc sống. Tre làm nên những cây cầu nhỏ nối đôi bờ, làm nên hàng rào bao quanh ngôi nhà, làm cán cuốc, cán chổi, đòn gánh, rổ rá… phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Tre có mặt trong bữa ăn dân dã qua món măng kho, măng luộc, hoặc búp măng chấm tương – đơn sơ mà đậm đà. Lá tre dùng để gói bánh, thân tre được tận dụng làm đồ thủ công mỹ nghệ. Không có bộ phận nào của cây tre bị lãng phí – nó sống và cống hiến trọn vẹn cho con người.

Cây tre cũng gắn bó mật thiết với lịch sử và văn hóa dân tộc. Khi đất nước còn chìm trong bom đạn, tre đã cùng nhân dân đứng lên chiến đấu. Những cây chông tre sắc nhọn, những gậy gộc thô sơ từ thân tre đã từng trở thành vũ khí chống giặc xâm lược, thể hiện tinh thần bất khuất của nhân dân ta. Trong truyện cổ tích, Thánh Gióng nhổ bụi tre làng để đánh giặc Ân, như một lời khẳng định sức mạnh của cây tre trong tâm thức người Việt.

Không dừng lại ở giá trị vật chất, cây tre còn mang ý nghĩa tinh thần sâu sắc. Tre là biểu tượng cho người Việt – kiên cường, bất khuất, giàu lòng nhân ái nhưng cũng không chịu khuất phục trước khó khăn. Tre sống đoàn kết, không đứng lẻ loi mà mọc thành cụm – cũng như tinh thần cố kết cộng đồng của người Việt. Tre đứng thẳng, không khuất mình, biểu tượng cho sự chính trực, ngay thẳng và mạnh mẽ.

Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại với bê tông, sắt thép và máy móc đã thay thế phần lớn vai trò vật chất của tre, nhưng giá trị tinh thần mà cây tre mang lại vẫn nguyên vẹn. Những sản phẩm từ tre như đồ gia dụng, thủ công mỹ nghệ hay vật liệu xanh thân thiện với môi trường đang ngày càng được ưa chuộng trở lại. Tre bước vào đời sống hiện đại theo một cách khác – nhẹ nhàng, bền vững và đầy ý nghĩa.

Cây tre – biểu tượng của làng quê, của con người, của tâm hồn Việt Nam – vẫn sẽ mãi vững vàng như thế. Dẫu thời gian trôi qua, dẫu bao thế hệ thay nhau lớn lên và đi xa, thì tiếng rì rào của tre trong gió vẫn là âm thanh mà người Việt mang theo trong tim. Tre không chỉ là cây – tre là ký ức, là bản sắc, là linh hồn đất Việt.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – mẫu 20

Nếu ai từng lớn lên ở làng quê Việt Nam, chắc hẳn sẽ không quên được hình ảnh những lũy tre xanh nghiêng mình bên dòng sông, rì rào mỗi khi có làn gió nhẹ thoảng qua. Dưới bóng tre là bầy trẻ chơi đánh chuyền, là cụ già nhâm nhi chén trà, là những buổi trưa hè yên ả ru giấc ngủ. Tre không chỉ là một loài cây mà đã trở thành một phần ký ức, một phần thân thuộc trong cuộc sống của người dân quê.

Cây tre là loài cây thuộc họ Hòa thảo, có thân rỗng, mọc thành bụi, sống nhiều ở vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam, tre xuất hiện khắp mọi miền – từ miền núi đến đồng bằng, từ bờ sông đến triền đê, đặc biệt là ở các làng quê. Thân tre cao, thẳng, được chia thành nhiều đốt đều nhau. Dù bên trong rỗng nhưng thân tre lại rất cứng và dẻo, chịu được va đập và uốn cong. Lá tre nhỏ, dài và nhọn, xanh mướt quanh năm. Một điểm đặc biệt của cây tre là sức sống mạnh mẽ, có thể mọc trên đất cằn, và khi cây mẹ già đi thì măng non lại tiếp tục vươn lên, tượng trưng cho tinh thần kế thừa và phát triển không ngừng.

Trong cuộc sống người dân Việt Nam, cây tre mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Tre được dùng để làm nhà cửa, giường, bàn, ghế, làm rổ rá, cán cuốc, đòn gánh… Lá tre dùng để gói bánh, thân tre để làm chông, làm cầu khỉ, hoặc được sử dụng trong nghề thủ công mỹ nghệ. Búp măng – phần non của cây tre – còn là một món ăn quen thuộc, có thể nấu canh, kho thịt hay muối chua. Cây tre giản dị mà tiện dụng, không có gì bị bỏ phí từ nó.

Không chỉ hiện diện trong sinh hoạt, cây tre còn gắn liền với lịch sử và tinh thần dân tộc. Trong những năm tháng chiến tranh, cây tre trở thành vũ khí thô sơ nhưng hiệu quả: những cây chông tre, gậy tre, rào tre đã cùng người dân gìn giữ làng xóm, bảo vệ quê hương. Tre đi vào ca dao, tục ngữ, vào lời ru của mẹ, vào thơ ca và nghệ thuật. Hình ảnh tre đứng thẳng, vững vàng giữa gió mưa tượng trưng cho con người Việt Nam – cần cù, giản dị mà kiên cường, bất khuất.

Ngày nay, trong thời đại công nghệ phát triển, người ta vẫn tìm thấy nơi cây tre những giá trị truyền thống đáng quý. Các sản phẩm từ tre được sử dụng rộng rãi và xuất khẩu, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và hướng tới lối sống xanh, thân thiện với môi trường.

Cây tre Việt Nam – biểu tượng của làng quê, của lòng kiên trì và tinh thần dân tộc – sẽ mãi là một phần trong trái tim mỗi người con đất Việt. Dù cuộc sống có hiện đại đến đâu, thì hình ảnh những rặng tre xanh rì rào trước gió vẫn luôn là biểu tượng đẹp đẽ và bình yên của quê hương.

Tải xuống

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Follow https://www.facebook.com/hoc.cung.vietjack/ để tiếp tục theo dõi các loạt bài mới nhất về ngữ pháp tiếng Anh, luyện thi TOEIC, Java,C,C++,Javascript,HTML,Python,Database,Mobile.... mới nhất của chúng tôi.


Đề thi, giáo án các lớp các môn học